Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non

doc 11 trang skkn 27/07/2024 980
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non
 SÁNG KIẾN CẢI TIÊN KỸ THUẬT
 “Sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ Mầm non”
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lí do chọn đề tài: 
 Tất cả chúng ta đều biết, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi mầm non. 
Khác biệt với các lứa tuổi khác, trẻ mầm non “Học bằng chơi, chơi mà học”. Việc tổ chức 
hoạt động vui chơi cho trẻ chính là tổ chức hoạt động cuộc sống của trẻ, nhằm giúp trẻ phát 
triển một cách toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và tình cảm xã hội, vui chơi 
cũng chính là phương tiện để trẻ học làm người.
 Đặc biệt ở lứa tuổi này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hình tượng. Trong bất cứ 
hoạt động học tập hay vui chơi nào của trẻ cũng đòi hỏi cần phải có đồ chơi, đồ dùng trực 
quan. Chính vì vậy, đồ dùng đồ chơi ở trường mầm non được coi là bộ sách giáo khoa đầu 
tiên để dẫn dắt trẻ vào đời. Để giúp trẻ thực hiện tốt hoạt động chủ đạo của mình điều tất yếu 
phải có đủ đồ dùng đồ chơi tương ứng để tổ chức tốt các hoạt động mà trẻ sẽ được trải 
nghiệm.
 Thực tế chung là các đồ dùng, đồ chơi được cấp phát chưa thể đáp ứng được hết nhu 
cầu giáo dục mầm non do nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục nói chung và giáo dục mầm 
non nói riêng còn rất hạn chế. Do đó, ngoài việc sử dụng một cách hiệu quả những đồ dùng 
đồ chơi được cấp phát, giáo viên mầm non còn tận dụng môi trường lớp học, khuôn viên 
trường và tự tạo những đồ dùng, đồ chơi từ nhiều nguyên vật liệu khác nhau để đáp ứng nhu 
cầu của các hoạt động giáo dục trẻ. Đó cũng là chủ trương của ngành đề ra.
 Mỗi đồ dùng dạy học được cấp phát hay giáo viên tự làm đều có mục đích sử dụng 
riêng, tự nó không thể phục vụ được nhiều hoạt động khác nhau, dẫn đến việc giáo viên 
mầm non phải mất rất nhiều thời gian và tiền bạc cho việc làm đồ dùng dạy học phục vụ cho 
“ý đồ” giảng dạy của mình. Các đồ dùng được làm rất kỳ công nhưng công năng sử dụng lại 
hạn chế. Sự hạn chế đó đôi khi không phải do bản thân đồ dùng mà do chính giáo viên chưa 
biết cách khai thác đồ dùng mình làm ra cũng như khai thác hiệu quả hơn các đồ dùng, đồ 
chơi được cấp phát và các phương tiện trong môi trường hoạt động. Xuất phát từ lý do này, 
trong hơn 3 năm công tác, tôi đã nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp khác nhau để phát huy 
tính hiệu quả của các đồ dùng được cấp phát cũng như tự làm cùng với các phương tiện 
trong lớp học, giúp tiết kiệm chi phí trong việc làm đồ dùng, đồng thời cũng đạt được những 
hiệu quả rất tốt trên trẻ. Đồng thời, với kết quả cao trong các hội thi “giáo viên tự làm và sử 
dụng đồ dùng dạy” cấp huyện, cấp tỉnh trong năm qua đã giúp tôi thêm tự tin để viết đề tài 
“Một số kinh nghiệm sử dụng hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy trẻ mầm non” để chia sẻ 
cùng đồng nghiệp.
 1.2. Điểm mới của đề tài:
 Qua việc vận dụng đề tài này vào thực tiễn rất có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả cao 
trong công tác tự làm đồ dùng đồ chơi, sử dụng có hiệu quả các đồ dùng đồ chơi, bản thân 
tôi đã tham khảo một số đề tài của một số đồng nghiệp, các giáo viên đã làm về sử dụng 
hiệu quả đồ dùng trong giảng dạy. Riêng bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số phương pháp 
sử dụng hiệu quả đồ dùng, đồ chơi trong giảng dạy vào đề tài này. - Mặt khác, tuy đa số giáo viên đều nhận thức được sự cần thiết của đồ dùng học tập 
trong mọi hoạt động của trẻ, vận dụng đồ dùng đồ chơi đúng nơi, đúng lúc, sáng tạo. Tuy 
nhiên, đôi lúc chưa khai thác hết đồ dùng trong một hoạt động, hoặc phải chuẩn bị quá nhiều 
đồ dùng trong khi chỉ cần 1 hay một vài đồ dùng trong những đồ dùng đó là có thể đáp ứng 
tốt yêu cầu của các nội dung hoạt động.
 - Các thông tin, tài liệu về việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi hiệu quả không nhiều, và có 
phần trừu tượng, chung chung, không cụ thể nên việc vận dụng thực tế thường theo tâm lý 
chủ quan của mỗi người. Điều này không tiêu cực nhưng lại có nhiều hạn chế.
 Từ những thuận lợi và khó khăn của thực trạng vấn đề, qua thời gian công tác ứng 
dụng đề tài vào việc giảng dạy, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhằm khắc phục 
những hạn chế như sau:
 2.2. Một số biện pháp thực hiện:
 2.2.1. Sử dụng và phát huy hiệu quả của đồ dùng được cấp phát và tận dụng môi 
trường lớp học.
 a. Sử dụng hiệu quả đồ dùng được cấp phát và đồ dùng có trong trường.
 Sử dụng hiệu quả đồ dùng, trước hết tôi thường chú ý đến việc sử dụng hiệu quả đồ 
dùng được cấp phát. Có rất nhiều hoạt động không nhất thiết giáo viên phải hì hục thiết kế 
đồ dùng thật kỳ công, tạo ra nhiều đồ dùng mới lạ mà quên hẳn những đồ dùng đồ chơi được 
cấp phát cũng có thể mang lại hiệu quả tương tự, thậm chí là cao hơn, còn đồ dùng đã làm ra 
thì lại thấy không cần thiết và hiếm khi dùng đến.
 Ví dụ: Trong một tiết làm quen văn học, để phục vụ cho mục đích dạy trẻ đọc thơ 
,một giáo viên đã kỳ công vẽ tranh để dạy trẻ mất rất nhiều thời gian, trong khi đó trường đã 
cấp phát cho lớp một bộ tranh rất đẹp có thể sử dụng rất tốt cho hoạt động mà không mất 
nhiều thời gian.
 Hay trong các hoạt động ngoài trời, một số cô kỳ công chuẩn bị rất nhiều đồ dùng, đồ 
chơi cho trẻ hoạt động mà lại không cho trẻ được chơi các trò chơi trong sân trường.
 Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên sử dụng đồ dùng ở trong lớp như gậy, vòng, cờ, 
bóng,; Nhạc cụ, trang phục hóa trang ở phòng âm nhạc. Tôi sử dụng vào các hoạt động tổ 
chức trò chơi trên lớp, đóng vai nhân vật trong các tình huống tổ chức hoạt động hoặc sử 
dụng làm đồ dùng chính trong các hoạt động của trẻ.
 Ví dụ như sử dụng trang phục trong phòng âm nhạc cho trẻ làm quen với trang phục 
các vùng miền; Làm quen với các loại nhạc cụ; Chơi trò các trò chơi như “kéo co”, các trò 
chơi có lồng ghép các vận động như bật liên tục qua các vòng, ném, tung bắt bóng,
 Ngoài việc sử dụng đúng chức năng, mục đích sử dụng đồ dùng, tôi còn chú ý nhiều 
đến việc sử dụng đồ dùng đúng lúc, đúng chỗ, đúng cường độ sử dụng đồ dùng. Ví dụ như 
trong các tình huống đặt câu đố với trẻ thì trước đó, tôi chú ý không cho đồ dùng được đố ở 
nơi mà trẻ có thể nhìn thấy được cho đến khi có đáp án. Hay trong việc chuyển tiếp hoạt 
động, nếu đồ dùng không còn sử dụng cho hoạt động tiếp theo thì cũng không đặt trong tầm 
quan sát của trẻ để tránh cho trẻ bị phân tâm, mất tập trung trong hoạt động kế tiếp. Hoặc 
trong việc sắp xếp, chọn vị trí đặt đồ dùng, tôi thường chú ý đến tính hợp lý của vị trí đồ 
dùng để hoạt động bảo đảm tính tự nhiên, khoa học. Ví dụ như trong các mô hình, con 
người, con vật, hoa, cỏ, phương tiện giao thông không đặt cao hơn cái nhà hay cây xanh; đồi 
núi, mây, mặt trăng, mặt trời không được thấp hơn các nhà cửa, cây cối, Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên sử dụng đồ dùng ở trong lớp như gậy, vòng, cờ, 
bóng, Nhạc cụ, trang phục hóa trang ở phòng âm nhạc. Tôi sử dụng vào các hoạt động tổ 
chức trò chơi trên lớp, đóng vai nhân vật trong các tình huống tổ chức hoạt động hoặc sử 
dụng làm đồ dùng chính trong các hoạt động của trẻ.
 2.2.2 Làm và sử dụng đồ dùng tự tạo hiệu quả.
 Muốn sử dụng đồ dùng tự tạo hiệu quả thì phải tính toán ngay từ khâu chuẩn bị làm đồ 
dùng đó để tránh lãng phí thời gian, công sức và tiền bạc.
 Tôi thường làm những đồ dùng, đồ chơi mà thật sự lớp không có hoặc không thay thế 
được. Đồ chơi được làm cũng tính nhiều đến tính hiệu quả, tần suất sử dụng đồ dùng để 
tránh lãng phí thời gian, công sức và tiền của.
 Khi bắt tay vào làm đồ dùng, tôi thường chú ý đến tính sư phạm, tính mỹ thuật, tính 
kỹ thuật, tính kinh tế, tính sáng tạo của đồ dùng.
 Những đồ dùng tôi đã làm, đang được sử dụng trong lớp đa số từ các nguyên vật liệu 
gần gũi nhất, dễ tìm thấy nhất ở bất cứ nơi đâu. Đầu tiên là sử dụng những nguyên vật liệu 
có thể sử dụng được ngay mà không cần tái chế lại hay tái chế rất ít, tốn thời gian ít nhất. Ví 
dụ như rơm, vỏ sò, sỏi, lá cây, chai nước ngọt, hộp sữa, muỗng và hộp sữa chua, đĩa CD, ống 
hút, dây chun, lịch cũ, que kem Với những nguyên vật liệu đó, trẻ có thể thao tác, chơi rất 
nhiều hoạt động khác nhau như xếp hàng rào, xếp sân khấu, chơi bán hàng,
 Đầu tiên tôi chú trọng cho trẻ chơi các trò chơi dân gian, truyền thống từ những đồ 
chơi sẵn có trong thiên nhiên hoặc làm các đồ chơi truyền thống như nhảy lò cò, làm tò he, 
làm con trâu bằng lá mít, làm kèn,. Các hoạt động này không mất của tôi nhiều thời gian, 
công sức để chuẩn bị đồ chơi nhưng mang đến hiệu quả giáo dục, phát triển rất tốt cho trẻ.
 Sau đó, từ những nguyên vật liệu nguyên sơ, dễ tìm đó, tôi tạo ra những đồ chơi khác 
nhau .Trước tiên tôi làm những đồ chơi đơn giản, trẻ có thể thực hiện cùng với cô trong hoạt 
động vui chơi, tạo hình ngoài tiết học, đó là những đồ dùng tôi đã thực hiện như: Bình hoa, 
ngôi nhà, tranh sáng tạo, búp bê, chiếc hộp nhiều ngăn, đồng hồ số, cây cảnh, các hình 
học, Với những đồ dùng này tôi chỉ cần chuẩn bị các hộp sữa, vòng bánh sinh nhật, 
muỗng sữa chua, đĩa CD, lon bia, gáo dừa, quả cau già, nhánh cây khô, vỏ bút chì sau khi 
chuốt, Tôi cắt những phần khó của đồ chơi, sau đó hướng dẫn trẻ sắp xếp và dán ngay 
ngắn các phần lại với nhau để tạo thành một đồ chơi. Và với những đồ chơi này, trẻ đã chơi 
được rất lâu, sử dụng được tất cả các chủ đề trong những hoạt động làm với, môi trường 
xung quanh, làm quen với toán,
 2.2.3. Tuyên truyền về hiệu quả đồ dùng đến phụ huynh.
 Đầu tiên là việc tuyên truyền đến phụ huynh về ý nghĩa của các đồ chơi gắn với trò 
chơi dân gian, gần gũi, sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có, rẻ tiền.
 Cuộc sống bộn bề ngày nay đã làm cho phụ huynh không còn thời gian để nghĩ đến 
những việc đó mà thay thế hoàn toàn bằng trò chơi, đồ chơi hiện đại, được sản xuất trên các 
dây chuyền công nghiệp hiện đại. Trên thị trường đồ chơi ở Việt Nam, đồ chơi của Trung 
Quốc và nước ngoài chiếm đa số. Có hàng trăm loại đồ chơi với nhiều chủng loại, giá cả, 
chất liệu, mẫu mã khác nhau. Bên cạnh một số đồ chơi mang tính giáo dục, phát huy trí tuệ, 
sự thông minh, khả năng khám phá của trẻ cũng có những đồ chơi không an toàn, kích động 
tính hiếu chiến, bạo lực như súng, gươm, siêu nhân cầm vũ khí, mặt nạ dữ dằn v.v... và nhiều Đối với các đồ dùng còn thiếu để phục vụ cho chủ đề, tôi vận động các giáo viên trong 
tổ sẽ cùng nhau phối hợp, sưu tầm thêm đồ dùng phục vụ cho chủ đề, đề tài đó. Khi chọn 
tranh ảnh, vật thật, tài liệu phục vụ cho chủ đề, đề tài chú ý đến tính điển hình, phản ánh 
trung thực và chính xác, đảm bảo tính khoa học, tính sư phạm và tính mỹ thuật để không mất 
thời gian và công sức sưu tầm đồ dùng.
 2.2.5. Đề ra nguyên tắc sử dụng đồ dùng cho bản thân.
 Đối với tôi, để sử dụng đồ dùng hiệu quả cần phải có những nguyên tắc sử dụng đồ 
dùng, đồ chơi. Với tôi, những nguyên tắc mà tôi đề ra là:
 - Sử dụng đồ dùng phù hợp đề tài, đúng lúc, đúng chỗ, khai thác hiệu quả đồ dùng.
 - Ưu tiên tận dụng đồ dùng, đồ chơi có sẵn trong lớp, trong trường kết hợp tận dụng 
môi trường lớp học.
 - Thường xuyên tổ chức làm đồ dùng, đồ chơi mới, mỗi tháng bổ sung ít nhất một bộ 
đồ dùng, đồ chơi mới có chất lượng và hiệu quả.
 - Bảo quản tốt đồ dùng, đồ chơi đã có, gia cố, sửa chữa hoặc thay thế ngay đồ dùng hư 
hỏng.
 - Thường xuyên bổ sung, thay đổi đồ dùng đồ chơi hoặc thay đổi cách chơi để để trẻ 
bị nhàm chán.
 - Việc mượn, trả đồ dùng cần nghiêm túc, không làm hư hao, tổn thất đồ dùng.
 - Không sử dụng cùng một đồ dùng với cùng hiện trạng và cùng hình thức sử dụng 
tương tự nhau giữa các hoạt động, các chủ đề.
 - Lắng nghe góp ý của đồng nghiệp, không cố chấp, bảo thủ.
 2.3. Kết quả đạt được. 
 Qua việc ứng dụng thực tiễn trong công tác, qua các đợt thì đồ dùng cấp huyện, cấp 
tỉnh, tôi có các kết quả sau đây:
 *Đối với trẻ:
 - Trẻ hứng thú, tích cực hơn và nhớ lâu hơn.
 - Trẻ dần thích chơi các đồ chơi ở lớp hơn các đồ chơi bên ngoài như súng, gươm, 
siêu nhân,
 - Trẻ có những sáng tạo rõ nét với các đồ dùng, đồ chơi, cách chơi, có thể tự tạo nhiều 
đồ chơi cho mình từ các nguyên vật liệu và đồ chơi ở lớp.
 - Trẻ thể hiện vai chơi và sử dụng đồ chơi rất sáng tạo. Ví dụ như đối với “tiền” ở góc 
phân vai, trẻ phân loại “tiền” từ tờ lịch là “tiền đôla”, tiền từ các thẻ số là “tiền Việt Nam”, 
hay việc trả giá, kỳ kèo; đóng giả là người Việt Nam hay người nước ngoài, thể hiện cử chỉ, 
điệu bộ rất dễ thương, sáng tạo.
 - Qua các đợt thao giảng, dự giờ có cấp trên dự, trẻ lớp tôi được đánh giá là có kỹ 
năng chơi rất tốt.
 Các hoạt động 
 Số lượng Sau khi áp dụng các 
 Kết quả khi chưa áp 
 trẻ biện pháp đề ra
 dụng đổi mới
 - Số trẻ hứng thú, tích cực 29 50% - 60% 85% - 90%
 - Thể hiện tốt vai chơi. 29 55% - 60% 85% - 90%
 - Có kỹ năng tốt. 29 60% - 65% 80% - 90%
 - Có sự sáng tạo, đề xuất ý 
 29 25 - 30% 60 - 70%
 kiến trong quá trình hoạt 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_hieu_qua_do_dung_trong_giang_d.doc