Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xử lý các tình huống sư phạm trong hoạt động giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi)

docx 25 trang skkn 22/05/2024 2040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xử lý các tình huống sư phạm trong hoạt động giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xử lý các tình huống sư phạm trong hoạt động giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xử lý các tình huống sư phạm trong hoạt động giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi)
 ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM 
 TRƯỜNG MẦM NON DƯƠNG HÀ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM, GIẢI PHÁP
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XỬ LÝ CÁC TÌNH HUỐNG 
 SƯ PHẠM TRONG GIAO TIẾP Ở TRẺ
 MẪU GIÁO BÉ (3-4 TUỔI)
 Lĩnh vực: Giáo dục mẫu giáo 
 Cấp học: Mầm non
 Tác giả: Nguyễn Thị Mai Phương
 Đơn vị công tác: Trường MN Dương Hà 
 Chức Vụ: Giáo Viên
 Năm học: 2020 – 2021
 MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
 Ngay từ khi bé chào đời, thì giao tiếp đã là một kỹ năng quan trọng giúp 
bé tồn tại và phát triển, bé giao tiếp qua ánh mắt, qua các cử động của tay chân 
và đặc biệt là qua tiếng khóc Một người mẹ có sự quan tâm và gần gũi con 
chắc chắn sẽ hiểu khi nào bé khóc vì đói, khi nào bé khóc vì đau, vì sợ và cả khi 
nhõng nhẽo nữa !Khi biết nói ở lứa tuổi lên 3, thì bé bắt đầu sử dụng ngôn 
ngữ để giao tiếp, đồng thời với khả năng bộc lộ cảm xúc thông qua giao tiếp phi 
ngôn ngữ qua ánh mắt với những nét mặt và các dấu hiệu của cơ thể, nếu được 
đáp ứng đầy đủ sẽ giúp cho bé hình thành sự tự tin vào bản thân cũng như xây 
dựng những mối tương giao với mọi người xung quanh.Vì thế kỹ năng giao tiếp 
được xem là một năng lực cần thiết cho trẻ mở rộng quan hệ từ trong gia đình 
cho đến ngoài nhà trường và xã hội.
 Khi bước vào tuổi thứ 3 trẻ có thể tự ăn, tự rửa mặt và làm một số việc 
khác. Trẻ xuất hiện hành động không phụ thuộc vào người lớn trẻ từ chối sự 
chấp nhận của người lớn, khắc phục những khó khăn ngay cả những việc trẻ 
chưa làm được. Điều này thể hiện ở trong lời nói “Con tự làm”. Sự xuất hiện 
khuynh hướng tự lực đồng thời xuất hiện hình thức mới của nguyện vọng 
khômg trùng với ý muốn của người lớn.Điều này thể hiện trong lời nói khẳng 
định “Con muốn” khăng khăng. Sự mâu thuẫn giữa “ cái tôi muốn”và “ cái cần 
làm” đặt ra trước trẻ cần thiết phải lựa chọn. Từ đó những xúc cảm trái ngược 
nhau xuất hiện nảy sinh mối quan hệ tự tôn với người lớn và xác định mâu thuẫn 
trong hành vi của trẻ dẫn đến cuộc khủng hoảng của tuổi lên ba.L.I.BOZOVICH 
nhận định sự nảy sinh “Hệ thống cái tôi” sinh ra nhu cầu tự hành động là sự hình 
thành trung tâm mới của trẻ lên ba. Sự tự ý thức của trẻ được phát triển có ý 
nghĩa quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Sự hình 
thành “Hệ thống cái tôi” tạo điều kiện nảy sinh tự đánh giá và hướng tới những 
nhu cầu của người lớn tồn tại sự khủng hoảng chứng minh khả năng hình thành 
các mối quan hệ mới của trẻ và các hình thức giao tiếp khác.Ở độ tuổi này giao 
tiếp của bạn bè ảnh hưởng tới trẻ, giao tiếp với người lớn tạo tiền đề cho trẻ giao 
tiếp với bạn cùng tuổi được thể hiện trong các mối quan hệ giữa trẻ với nhau. 
Giao tiếp của đứa trẻ với người lớn và bạn cùng tuổi sự biến dạng của chính một 
dạng giao tiếp nào đó. Mục đích chính của dạng giao tiếp này là cùng tham gia 
những trò tinh nghịch cùng nhau. Quá trình hành động với đồ chơi làm cho trẻ 
vui sướng trẻ hào hứng hoàn thành chung. Trong giai đoạn này người lớn cần 
điều chỉnh giao tiếp một cách hợp lý. Giao tiếp xúc cảm trực tiếp với bạn cùng 
tuổi tạo điều kiện phát triển các phẩm chất nhân cách như chủ động tự do cho
 1/20 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I.Cơ sở lý luận
 Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người trong 
 xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói nhưng cũng có khi 
 tồn tại ở dạng viết. Giao tiếp cũng có thể được tiến hành bằng nhiều phương tiện 
 “ngôn ngữ” khác như: cử chỉ, điệu bộ, hành động, nét mặt, các phương tiện kĩ 
 thuật (tất cả được gọi là các hành vi siêu ngôn ngữ). Tuy nhiên phương tiện quan 
 trọng nhất, phổ biến nhất và hiệu quả tối ưu nhất vẫn là ngôn ngữ. Nhờ ngôn 
 ngữ và giao tiếp, con người trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm, thái độ, quan 
 hệ... để tổ chức xã hội hoạt động.Hoạt động giao tiếp có hai quá trình.Quá trình 
 tạo lập (hay sản sinh) lời nói, văn bản. Quá trình này do người nói hoặc người 
 viết thực hiện.Quá trình tiếp nhận (lĩnh hội) lời nói, văn bản do người nghe hoặc 
 người đọc thực hiện.Hai quá trình của hoạt động giao tiếp luôn diễn ra trong 
 quan hệ tương tác với nhau. Trong khi giao tiếp, người nói có thể vừa là người 
 tạo lập nhưng cũng lại vừa là người tiếp nhận lời nói bởi các vai giao tiếp luôn 
 luôn thay đổi. Chính vì vậy khi xem xét các quá trình giao tiếp, chúng ta phải 
 đặc biệt chú ý tới các tình huống giao tiếp cụ thể khác nhau.
 II. Cơ sở thực tiễn
 1. Thực trạng giao tiếp của trẻ trong lớp
 - Qua điều tra thực tế về vốn giao tiếp của trẻ tôi nhận thấy kết quả khảo sát: 
 Qua các tiêu trí sau: Biết bộc lộ cảm xúc của bản thân, Biết lắng nghe người 
 khác nói, Chia sẻ cảm xúc với bạn bè, Tích cực hợp tác với cô và bạn(kết quả 
 của ứng xử công bằng), Trẻ hiểu các quy tắc trong xã hội và biết sửa đổi dần tật 
 xấu của mình thông qua cách ứng xử này (Bảng khảo sát đầu năm:)
 Từ những số liệu trên cho thấy kỹ năng giao tiếp ứng xử của trẻ là rất thấp. Vì 
 vậy tôi đã mạnh dạn tìm cách trang bị thêm các kiến thức về giao tiếp ứng xử 
 với trẻ qua đề tài"Một số biện pháp xử lý tình huống sư phạm trong hoạt động 
 giao tiếp ở trẻ mẫu giáo bé( 3-4 tuổi)" nhằm giải quyết các tình huống, đồng thời 
 nâng cao kỹ năng giao tiếp ứng xử cho cô và trẻ.
 2. Thuận lợi
 - Bản thân tôi là một giáo viên nhiệt tình với trẻ tâm huyết với nghề nghiệp
 - Sĩ số lớp ổn định, trẻ phát triển đều, không có trẻ bị khuyết tật hay tự kỷ
 - Giáo viên ở lớp phối kết hợp và thống nhất phương pháp, biện pháp dạy trẻ.
 - Trường mầm non khu tôi có khuôn viên rộng rãi thoáng mát.
 - Nhà trường có truyền thống và nhiều thành tích trong chăm sóc, nuôi dưỡng 
 giáo dục trẻ.
 3/20 Ôi! cảm xúc của một đứa trẻ lên 3. Tôi trợn tròn mắt ngạc nhiên và không nói 
gì thêm,chỉ lắng nghe.Thấy vậy, cô giáo bên cạnh cũng quay sang định hỏi xem 
có chuyện gì xảy ra với cháu nhưng tôi kịp thời ra hiệu cho cô giáo đó giữ yên 
lặng, chúng tôi cùng lắng nghe.
- Mẹ bảo không về nhà ông nội!, chỉ ở nhà bà ngoại không về vpwis bố nhưng 
con nhớ bố, ...(Tiếp tục kể với cao trào nhanh hơn, có cảm xúc khích động 
hơn)... rồi thế này, thế kia. Sự việc xảy ra như thế nào,bố mẹ nói gì, thái độ của 
mọi người hôm ấy ra sao. Bảo nói hết, rõ ràng, không để xót chi tiết nhỏ nào. 
Nếu thiếu, con lại bổ xung ngay sau khi kể. Sau mỗi tình huống của con, chúng 
tôi chỉ gật đầu và tỏ vẻ ngạc nhiên, dớm nước mắt rồi lại lắng nghe. Ngoài ra 
không nói gì thêm! Sau khi con kể xong và nguôi bớt giận, chúng tôi mới hỏi 
cháu:
 - Con muốn ở với bố hay ở với mẹ hay cả hai?
 - .... Con muốn ngủ cùng cả bố và mẹ!
 Thông thường, các cô nhà ta sẽ lại can thiệp vào trẻ bằng cách giáo dục trẻ 
phải yêu bố thế này, yêu mẹ thế kia, cả nhà đoàn tụ thì mới vui vẻ,hạnh phúc... 
Nhưng trong trường hợp này, chúng tôi chỉ lắng nghe trẻ nói, và dừng câu hỏi tại 
đấy, gần như trẻ độc thoại. Nhưng sau khi kể cho chúng tôi xong, nó vui mừng 
lắm, tự chạy chơi với các bạn khác. Cháu không cần và chắc không muốn nghe 
thêm những lời thuyết giáo nào hết. Trẻ nói ra là để tâm sự. Vậy lúc này, nó chỉ 
muốn có người lắng nghe. Thế là quá đủ!
 Sau đó chúng tôi đã gặp phụ huynh và trao đổi tình hình ấy với họ. Vậy cần 
phải xác định đâu là đối tượng cần can thiệp. Mục đích của cô bé chỉ muốn thế, 
chúng ta chỉ nên giúp con thỏa mãn nhu cầu của nó là nó vui lắm rồi!
 Hay như việc giải quyết tình huống trẻ hay mách:
 - Cô ơi bạn Dũng cứ " đánh " con! Hay: Cô ơi bạn ý cứ nhìn con! Hoặc: Cô 
ơi bạn ý không chơi với con!... Trong trường hợp này chỉ cần nhìn trẻ và lắng 
nghe trẻ nói.
 - (Trẻ vui mừng chạy về chỗ ngay, khoe bạn): Tớ mách cô rồi nhé!
 Vậy là trẻ mách chỉ để " mách cô rồi nhé", mà không cần cô phải xuống tận 
nơi hay gọi trẻ kia ra và làm thầy kiện. Nếu cô làm thế thật, trẻ vừa mách xong 
sẽ sợ lắm. Cháu đó sẽ tìm cách lảng tránh ra chỗ khác ngay. Và trong nó lại có 
cảm giác hối hận vì đã mách cô, thương bạn vì đã bị cô mắng. Và vô tình cô 
giáo đã trở thành người thiên vị với bạn kia.
 Trường hợp tiếp theo xảy ra: Nếu cô lắng nghe một trẻ"mách" và như vậy 
làm cho các trẻ khác a dua nhau lên" mách " thì cô giáo cần có thái độ dứt khoát
 5/20 kêu khủng khiếp...) Cô Oanh cũng dỗ tương tự như bà mẹ trên. Nhưng vẫn 
không hiệu quả. May quá lúc đó tôi đi qua
 - Chắc con buồn lắm hả?
 - Vâng, con buồn lắm ý cô ạ! ( Con vừa khóc vừa nói còn tôi và cô Quỳnh 
nhìn nhau cười ngạc nhiên)
- Ừ....
 - ( Mếu máo đòi bóng tiếp...)
 - Cô ước gì có thể lấy cho con quả bóng đó!
- Cô bay lên để lấy à cô?( nín khóc và ngạc nhiên hỏi, tôi ra hiệu cho cô Oanh 
không được.. Vì bây giờ mà cười thì hỏng việc ngay,nó nghĩ là nó bị chế nhạo)
 - Ừ...
- Mọc cánh ở đâu hả cô?
 - Đâu nhỉ?
-Ở lưng chứ còn ở đâu nữa! ( Và rồi con sờ lưng tôi tìm cánh, tôi kêu nhột, thế 
là hai cô cháu cùng cười". )
Đấy,các bạn hãy thử cách này xem sao! Nhưng khi khác trẻ nhớ ra và đòi thì 
sao?
 - Bạn vẫn còn nhiều cách thức để áp dụng ở phía dưới
1.3. Dùng cách tưởng tượng để thực hiện nguyện vọng của trẻ.
 Vào một hôm thứ hai đầu tuần trong giờ ăn, như thường lệ tôi phụ trách một 
bàn vì bàn này nhiều bạn ăn chậm hơn. Cả bàn cầm thìa xúc cơm ăn gần hết bát 
cơm một rồi! Thế nhưng bạn "Minh Khang
" vẫn chưa chịu cầm thìa. Tôi đứng sát lại và hỏi "Minh Khang sao hôm nay vẫn 
chưa được miếng nào vậy? Trẻ nói "Cô ơi con muốn ăn thìa bát như hôm qua ở 
nhà con cơ".Tôi đã dùng cách tưởng tượng để thực hiện nguyện vọng của trẻ cho 
việc xử lý tình huống này như sau:
 - Con sãn sàng ăn chưa? Có cần cô giúp gì không?
 - Con không xúc bằng thìa này đâu. Con phải xúc thìa kia cơ!
 - Vậy à, chắc thìa của con đẹp lắm nhỉ!
 - Vâng, thìa màu xanh có hình con thỏ đẹp lắm!
 - ( Tôi hiểu trẻ đang nói gì vì tôi biết cái đó). Nhưng bây giờ thì không thể có 
được, cô ước gì biến được ra cho con thìa màu xanh. để con xúc cơm ăn.
 - Không, cả bát nữa!
 -Ừ thì cả bát xanh con thỏ nữa này,
 - Trẻ vui mừng vô cùng thích thế, mình có cả thìa và bát con thỏ màu xanh
rồi!
 7/20 - Được rồi, cô biết là các con nhớ lời cô dặn.Nhưng thi nhau ho như thế lại 
là không ngoan, bạn bị ốm nên bạn mới ho chứ các con không ốm thì không nên 
giả vờ ho như vậy.
 Đừng nói quá nhiều. Chỉ dừng lại ở đó thôi là trẻ đủ hiểu chúng ta định nói 
gì và chúng đã làm gì sai.
 Biện pháp 2.Giao tiếp giúp khích lệ trẻ hợp tác với chúng ta.
2.1. Mô tả
 Mô tả sự việc bạn thấy hoặc vấn đề bạn biết cho trẻ hiểu. Vì khi người lớn 
mô tả một vấn đề cũng là cho trẻ biết nên làm cái gì!
 Hình ảnh 2: Cửa chưa đóng kìa con.
 Phản tác dụng Mô tả
 1. Con vô ý tứ quá! Đi ra đi vào phải 
đóng cửa lại chứ. Trời lạnh thế này mà 1. Cửa chưa đóng kìa con
cấm có nhớ!
 2. Lại làm đổ bàn ra rồi. Biết ngay mà! 
Nghịch như giặc, không lúc nào chịu yên 2. Bàn đổ rồi kìa!
chân tay. Con ngồi im một lúc cho cô
nhờ!
 3. Lại quên tắt vòi nước rồi! Cô nhắc 
bao nhiêu lần là dùng xong phải khóa vòi 3.Vòi nước rửa tay vẫn đang 
nước vào kẻo lãng phí! Con muốn lớp chảy đấy
mình ngập hết à?
2.2 Nhắc nhở
 Phản tác dụng Nhắc nhở
 1. Ai ăn xong không cất ghế vào đúng 1. Các con cất ghế vào đúng chỗ 
chỗ đấy? Ngày nào cô cũng nhắc mà cho gọn gàng
không chịu tự giác. Để cô cất hộ nhé!
 2. Trời ơi! ai vẽ bậy lên tường đây, lại 2. Sàn nhà không phải chỗ là để
còn đầy cả thảm nữa. Cô mà trông thấy ai các con vẽ đâu. Muốn vẽ thì phải 
vẽ bậy ra sàn nhà là sẽ bị phạt ngay! lấy giấy ở đây ra mà vẽ nhé!
 3. Các con không thấy lớp bừa bãi và 
bẩn vì giấy màu hay sao. Có ai biết tự 3. Ai có thể giúp cô dọn lớp
giác giúp cô không?
Biện pháp 3. Giao tiếp giúp khích lệ trẻ tự lập 
3.1 Cho trẻ tự đưa ra lựa chọn
 Dạy cho trẻ biết cách tự chủ động lựa chọn để tránh sự ỷ lại dựa dẫm của trẻ 
vào chúng ta. Và chính sự dựa dẫm đó lại gây phiền toái cho chúng ta.
 9/20

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_xu_ly_cac_tinh_huong.docx