Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) sớm thích nghi với môi trường lớp học tại trường mầm non

docx 14 trang skkn 03/05/2024 200
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) sớm thích nghi với môi trường lớp học tại trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) sớm thích nghi với môi trường lớp học tại trường mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo bé (3-4 tuổi) sớm thích nghi với môi trường lớp học tại trường mầm non
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
 Trẻ 3 tuổi có nhu cầu cần được giao tiếp với bạn bè cùng tuổi và phát 
triển các quan hệ giữa bé và cô, bé với bạn. Đến trường mầm non bé học được 
nhiều điều mới như kỹ năng xã hội, kỹ năng quan hệ với bạn bè, cô giáo, hay kỹ 
năng học tập – đặc biệt là khả năng giao tiếp. 
 Khả năng giao tiếp là một trong những điều kiện cơ bản để lớn lên trẻ có 
thể tự tin khi tiếp xúc, va chạm với mọi người trong xã hội. Môi trường gia đình 
không còn đủ với trẻ, trẻ sẽ cảm thấy buồn chán nếu suốt ngày chỉ quanh quẩn 
bên ông bà, bố mẹ.Trong độ tuổi này, bé khám phá các sự việc xung quanh rất 
nhanh nên trường mầm non thật sự cần thiết với trẻ.
 Giáo dục mầm non là giáo dục nền tảng có một vai trò quan trọng quyết 
định trong việc phát triển nhân cách của trẻ.Trẻ đến trường mầm non là giúp trẻ 
phát triển các mối liên hệ tâm lý, việc làm này còn quan trọng hơn là đối với 
phát triển kiến thức cho trẻ. “Trẻ em không thể tồn tại một mình” ở mỗi trẻ sinh 
ra đều có một nền tảng sinh học khác nhau, một tâm lý khác nhau, dẫn đến mỗi 
trẻ có môi trường an toàn, cảm giác an toàn “bên trong” thì trẻ mới khám phá 
thế giới tốt được. Do vậy chăm sóc giáo dục trẻ phải đáp ứng nhu cầu an toàn 
cho trẻ. Đây là yếu tố đầu tiên mà người giáo viên mầm non cần phải xác định 
và có kế hoạch tổ chức cho tốt ngay từ khi bước vào năm học.
 Mặt khác trẻ 3 – 4 tuổi non nớt đang quen được bao bọc trong môi trường 
của gia đình.Các mối quan hệ của trẻ chủ yếu là những người thân trong gia 
đình.Trẻ vẫn còn lạ lẫm với thế giới xung quanh với nhiều quan hệ mới.Vì vậy, 
lần đầu đến lớp sẽ cảm thấy sợ sệt, lo sợ, tất cả trở nên hoàn toàn mới lạ. Môi 
trường mới, lớp mới, cô giáo mới, bạn bè mới. Thêm nữa trẻ bị đưa vào một 
không gian mới với các quy tắc phải thực hiện nếp ăn, ngủ, vệ sinh, sinh hoạt ở 
lớp, trẻ cảm thấy bị bất ngờ chưa thể thích nghi được ngay.Tôi đã từng chứng 
kiến có những cháu đi lớp hết học kỳ I vẫn chưa quen lớp học, hoặc có những 
cháu cứ đi học vài ba buổi là sốt.Mỗi năm đối tượng các cháu khác nhau và cách 
làm quen cũng khác nhau.
 Ý thức được nhiệm vụ và vai trò đó, là người giáo viên giảng dạy ở khối 
mẫu giáo bé hầu hết các cháu trong lớp đều không đi học lớp nhà trẻ. Vì vậy, tôi 
luôn tìm tòi những phương pháp giúp trẻ sớm thích nghi với môi trường ở 
trường mầm non.Từ những lý do trên, năm học 2019 – 2020 tôi đã chọn đề tài: 
“Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) sớm thích nghi với môi 
trường lớp học tại trường mầm non”.
 1 / 14 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Cơ sở lý luận:
 Ở lứa tuổi MGB (3 – 4 tuổi) thời gian đầu trẻ rất khó thích nghi với môi 
trường lớp học. Bởi ở lứa tuổi này trẻ còn nhỏ, sức đề kháng kém nên hay ốm. 
Tâm lý trẻ 3 tuổi chưa ổn định. Ở độ tuổi này trẻ thường quen gắn với cụm từ 
“khủng hoảng tuổi lên 3”. Trẻ có nhu cầu độc lập do phát triển ý thức bản ngã, ý 
thức nhưng năng lực còn hạn chế, cơ thể non nớt và đặc biệt là người lớn 
thường cấm đoán nên nhu cầu của trẻ không được thỏa mãn. Có trẻ thì thích đến 
lớp vì nhiều đồ chơi mới, có trẻ sợ hoặc lo lắng khi gặp nhiều bạn mới, cô mới, 
sợ đi học...Những lý do trên dẫn đến hiện tượng trẻ chưa thích nghi với môi 
trường lớp học tại trường mầm non.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Đặc điểm tình hình:
- Trường có 19 lớp học, trong đó có 4 lớp mẫu giáo bé.
- Được sự phân công của Ban giám hiệu năm nay tôi dạy lớp MGB C1. Lớp có 3 
cô chủ nhiệm, các cô đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn sư phạm mầm non.
- Lớp có 55 học sinh.
2. Thuận lợi:
- Về trường, lớp: Trường được công nhận “Trường tiến tiến”, trang bị đầy đủ về 
cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi. Ban giám hiệu nhà trường luôn sát sao, 
động viên khích lệ giáo viên sáng tạo trong bài giảng dạy, tạo điều kiện để giáo 
viên đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Lớp học thoáng mát, 
sạch sẽ, gọn gàng được trang trí đầy đủ các góc chơi theo hướng gợi mở cho trẻ. 
- Về giáo viên: Các giáo viên khối mẫu giáo bé có nhiều kinh nghiệm, trẻ nhiệt 
tình năng động trong công việc, tự trau dồi kiến thức để nâng cao năng lực 
chuyên môn. Bản thân tôi là một giáo viên luôn yêu nghề mến trẻ và thích sáng 
tạo. Tôi luôn có tinh thần trách nhiệm, luôn có ý thức hăng hái học hỏi, nâng cao 
trình độ qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Sách, báo, internet...
- Về học sinh: Trẻ lứa tuổi này hứng thú khám phá sự vật, hiện tượng xung 
quanh mình; thích được hoạt động, trải nghiệm trong các hoạt động.
- Về phụ huynh: Phụ huynh quan tâm ủng hộ cho lớp trong mọi hoạt động.
3. Khó khăn:
- Về trường, lớp: Sân trường không được rộng rãi, đồ chơi ngoài trời chưa được 
phong phú về chủng loại.
- Về giáo viên: Năng lực chuyên môn trong đội ngũ giáo viên không đồng đều. 
Một bộ phận giáo viên khi tổ chức các giờ hoạt động còn mang tính áp đặt, 
chưa chú trọng vào tâm lý trẻ, chưa tạo nhiều cơ hội để phát huy tính tích cực 
chủ động ở trẻ.
 3 / 14 quan tâm nhiều đến việc trang trí - sắp xếp lại phòng lớp cho phù hợp với đặc 
điểm tâm lý trẻ: Như trang trí các góc cho thật đẹp, bắt mắt và phù hợp với lứa 
tuổi.
 Ảnh minh họa 1: Trẻ chơi ở góc nấu ăn
 Ảnh minh họa 2: Trẻ chơi ở góc xây dựng
 Ảnh minh họa 3: Trẻ chơi ở góc bán hàng
 (Phụ lục)
 Lựa chọn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc đối với trẻ 3 tuổi như: củ 
quả, các con vật..để trang trí các góc. Để tránh nhàm chán cho trẻ tôi luôn trang 
trí lớp học thay đổi phù hợp theo chủ đề. Ngoài ra các góc tôi cũng trang trí, làm 
thêm đồ dùng sáng tạo cho phù hợp với chủ đề để thu hút trẻ tham gia hoạt động 
góc một cách hứng thú.
 Trong những ngày đầu chuẩn bị đón trẻ đến trường tôi đã nghĩ lớp của bé 
phải có đầy đủ đồ dùng, đồ chơi thật phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ.Trong 
lớp chuẩn bị nhiều thứ đồ dùng đồ chơi phải đẹp màu sắc hấp dẫn để thu hút chú 
ý của trẻ. Tận dụng những nguyên vật liệu phế thải: vải vụn, bìa, vỏ sữa...tôi làm 
thêm một số đồ chơi tự tạo. Trẻ yêu và thích đến lớp mỗi ngày.Các góc chơi đặt 
nhiều đồ chơi để tránh việc tranh giành đồ chơi.
 * Môi trường thiên nhiên ngoài lớp học:
 Môi trường thiên nhiên ngoài lớp học có ý nghĩa rất quan trọng. Ngoài 
việc giúp trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh, các sự vật hiện tượng tự nhiên 
thông qua hoạt động ngoài trời do cô tổ chức. Nó còn là một sân chơi thiên 
nhiên ban tặng. Ngoài việc xây dựng môi trường lớp học xanh – sạch – đẹp – an 
toàn – thân thiện phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Tôi còn tổ chức tốt 
các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non để trẻ 
sớm thích nghi và nhanh chóng hòa nhập với môi trường mới. 
 Ảnh minh họa 4: Trẻ chơi với đồ chơi ngoài trời
 (Phụ lục)
 Kết quả: Nhờ tạo môi trường không gian lớp học hài hòa mà các cháu 
nhanh chóng thích ứng với môi trường mới. Trẻ hào hứng hơn khi đến 
lớp.Trong 3 – 4 tuần đầu ngắn ngủi nhưng đa số trẻ đã không khóc nữa chỉ còn 2 
bạn vẫn khóc khi đến lớp.
 5 / 14 + Phụ huynh cần biết việc đưa trẻ đến trường là để giúp trẻ biết tự lập dần dần 
và biết chơi với bạn hòa thuận, phát triển ngôn ngữ, giao tiếp, vận động.
+ Chuẩn bị tâm lý cho trẻ trước khi đi học để gây thiện cảm đối với trường mầm 
non: giới thiệu trẻ ở trường có nhiều bạn, nhiều đồ chơi, cô giáo rất yêu thương 
trẻ
+ Tôi đã nhờ phụ huynh giải thích cho trẻ hiểu khi trẻ đi học thì ông bà cha mẹ 
làm gì và trẻ chỉ ở trường ban ngày, chiều bố mẹ lại đón về để trẻ yên tâm là 
mình không bị bỏ rơi.
- Khi trẻ sắp đi học, tôi đề nghị phụ huynh cho trẻ tới trường trước 2 đến 3 lần, 
để trẻ làm quen với trường học như quan sát môi trường mới, nhìn các trẻ khác 
chơi đùa, làm quen với cô giáo dạy trẻ sau này... 
- Tôi đã tuyên truyền cho phụ huynh cần phải tìm hiểu chế độ ăn uống và lịch 
sinh hoạt hằng ngày ở nhà trường để tập cho trẻ làm quen dần và chuẩn bị sức 
khỏe cho trẻ thật tốt trước khi đi học.
- Một điều cần lưu ý mà tôi nhắc phụ huynh là dành thời gian đưa đón con đi học 
trong những ngày đầu, để trấn an trẻ. Không đón trẻ về muộn hơn những trẻ 
khác, vì sẽ tạo cho trẻ tâm lý bị cha mẹ bỏ rơi và từ đó trẻ sợ đi học.
- Đặc biệt là tránh thái độ hù dọa khi đưa trẻ đến trường như: “nếu con không 
ngoan bị cô giáo đánh” hoặc “Con hư sẽ đưa con đến trường hay “mách” cô 
giáo” Vì điều này sẽ vô tình tạo cho trẻ ý thức “Cô giáo rất dữ” và “đi học là bị 
phạt phải xa cách gia đình”, từ đó trẻ “sợ” cô giáo và không thích đi học.
Đối với một số cháu có cá tính đặc biệt, tôi phối hợp với các cô trong lớp kết 
hợp cùng đón trẻ. Trên thực tế trong cùng một lớp nhưng có những cháu lại chỉ 
theo một cô nhất định mà không theo các cô khác. Nên khi cháu đến lớp cô đó 
sẽ ra đón cháu.
 Có những cháu khóc quá nhiều, cháu theo cô nhưng vẫn khóc. Đối với 
những cháu này tôi bế ra sân chơi kết hợp trò chuyện gọi tên trẻ, xưng tên cô. 
Qua những câu trò chuyện xưng tên cô giáo giúp trẻ nhớ tên cô và tạo tình cảm 
giữa cô và trẻ. Khi đón trẻ vào lớp, tôi cùng trẻ đi dạo quanh lớp gợi hỏi trẻ tên 
các đồ vật, đồ chơi này tên là gì? để trẻ trả lời. Nếu trẻ không trả lời được hoặc 
không thích trả lời tôi sẽ gợi ý để trẻ trả lời câu hỏi của cô.
 Trong thời gian trẻ mới đến lớp, tôi thường chú ý đến đặc điểm, cá tính 
riêng của từng trẻ chiều theo những thói quen dù không đẹp của trẻ để trẻ cảm 
thấy an toàn ở môi trường mới này. Với một số trẻ có cá tính đặc biệt tôi trao đổi 
với phụ huynh để hiểu rõ cá tính riêng đặc thù chưa phù hợp với nề nếp ở trường 
mầm non sau đó dần đưa trẻ vào nề nếp.
 7 / 14 món: Su su cà rốt xào thịt bò; Tôm, thịt rim ngũ sắc; Thịt gà thịt lợn om 
nấmchính vì vậy việc đảm bảo chế độ ăn của trẻ là rất khó.
- Thêm vào đó do chức năng của bộ máy tiêu hóa trẻ nhỏ chưa phát triển hoàn 
thiện, gặp các thức ăn lạ trẻ hay nôn chớ dẫn đến không đảm bảo lượng dinh 
dưỡng hàng ngày kéo theo việc trẻ hay bị ốm. 
* Các biện pháp giúp trẻ đảm bảo chế độ dinh dưỡng tại trường. 
 - Trước tiên tôi tham mưu với Ban giám hiệu và tổ nuôi để thay đổi những thực 
đơn dễ ăn quen thuộc với trẻ. Trong những tuần đầu trẻ mới đến lớp nên cho trẻ 
ăn những món như: Thịt lợn, trứng chim cút kho tầu; Cá trắm, thịt lợn xốt cà 
chuaTôi đề nghị với nhà trường phải chú trọng hơn nữa tới việc nâng cao chất 
lượng nuôi dưỡng trẻ. Đặc biệt là xây dựng thực đơn, tính khẩu phần dinh 
dưỡng cân đối phù hợp. 
- Trước giờ ăn, tôi tạo cho trẻ cảm giác thoải mái vui vẻ để trẻ không có tâm lý 
sợ giờ ăn. Bên cạnh đó, tôi sẽ giới thiệu tên các món ăn cũng như các chất dinh 
dưỡng có trong món ăn một cách hấp dẫn nhất.
- Trong các bữa ăn tại trường thì động viên trẻ ăn hết suất, chú ý những trẻ ăn 
kém, mới đi lớp, trẻ mới ốm dậy giáo dục trẻ ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng để 
tăng sức đề kháng. Cho trẻ ăn đúng giờ tránh hiện tượng trẻ ngủ gật khi ăn.
Ví dụ 2: Trong giờ ăn, trẻ ở lứa tuổi này thường ăn cơm. Nhưng có những trẻ chỉ 
đòi ăn cháo và ăn được rất ít cơm. Cô giáo động viên khuyến kích, hướng dẫn 
trẻ tự xúc ăn. Ngoài ra còn kết hợp với phụ huynh cho trẻ uống bù thêm sữa vì 
những ngày này trẻ chưa thể thích nghi ngay với môi trường lớp học..
 Nhưng dần dần các bé đã quen với cô giáo với lớp học. Tôi sẽ cho các bé 
thực hiện nề nếp ăn, ngủ, vệ sinh, cất đồ dùng – đồ chơi đúng nơi quy định dưới 
các hình thức vui chơi hoặc thông qua những câu chuyện do cô sưu tầm hoặc 
sáng tác.
 Đặc biệt giáo viên không nên nôn nóng cố ép trẻ ăn nếu trẻ không muốn. 
Làm như vậy sẽ khiến trẻ cảm thấy giờ ăn là một cực hình và sẽ thành tật lười 
ăn. Tôi có thể chấp nhận cho trẻ ăn ít và uống sữa bù thêm, đồng thời dặn phụ 
huynh cho trẻ ăn tăng thêm khi ở nhà. Cho đến khi trẻ quen với lớp mới lúc đó 
sẽ là thời điểm động viên trẻ ăn hết xuất của mình. Vì vậy, các bậc phụ huynh 
rất vui và cảm thấy yên tâm hơn vì con mình được quan tâm chu đáo.
Kết quả:
- Qua một năm thực hiện trẻ lớp tôi tăng cân 100%.
- Trẻ trong lớp đã ăn được tất cả các món ăn ở trường, trẻ không còn bị nôn chớ 
và cũng rất hào hứng khi chuẩn bị đến giờ ăn.
 9 / 14

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_mau_giao_be.docx