Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiÕn : Đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non”. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục Mầm Non. 3. Tác giả Họ và tên: Nữ Sinh ngày: 05/9/1985 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non. Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Điện thoại: 4.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:. 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. Sự hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện của BGH và đồng nghiệp, sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh, lớp học, trẻ 5-6 tuổi, đồ dùng đồ chơi, máy tính, tivi, tranh ảnh về các chủ đề, một số trò chơi dân gian, các nguyên phế liệu, đồ dùng đồ chơi sẵn có ở lớp, một số tài liệu về cách phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ. 7. Thời gian, địa điểm sáng kiến được áp dụng: Thời gian: Từ năm học 2019 > 2020. Địa điểm: HỌ TÊN TÁC GIẢ ( KÝ TÊN) XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 1 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến - Cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo an toàn cho trẻ - Sự phối kết hợp của hội đồng sư phạm nhà trường, trẻ 5 - 6 tuổi - Thời gian áp dụng: Từ tháng 9 năm 2019 – đến tháng 02 năm 2020. - Đối tượng: Trẻ 5-6 tuổi 3. Nội dung sáng kiến: Thực tế hàng ngày trẻ được tham gia nhiều hoạt động nhưng trẻ chỉ biết rằng mình học, ăn hoặc chơi theo ý thích của bản thân trẻ, chính vì vậy một trong những nhiệm vụ của trường mầm non là trang bị cho trẻ những hiểu biết về cách phòng tránh và một sồ kỹ năng đơn giản để trẻ biết tự bảo vệ mình khi cần thiết. 4. Khẳng định giá trị, kế quả đạt được: - Sáng kiến đã góp phần giáo dục trẻ biết cách phòng tránh tai nạn thương tích tất cả các hoạt động (vui chơi, học tập, đi dạo) cho trẻ đúng lúc đúng yêu cầu. - Bản thân tôi đã chung tay cùng nhà trường phòng tránh tai nạn thương tích, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. 5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện, áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến: - Cần có sự hỗ trợ về kinh phí để đảm bảo sơ sở vật chất đảm bảo an toàn cho trẻ. - Sự phối hợp đồng bộ giữa hội đồng sư phạm nhà trường và hội cha mẹ học sinh. 3 cho trẻ những hiểu biết về “tai nạn thương tích cũng như cách phòng tránh tai nạn thương tích”. Để trẻ tiếp thu được những kiến thức đó, giáo viên cần nắm bắt được tình hình cũng như những đặc điểm của môi trường xung quanh trẻ. Các giáo viên mầm non cần được trang bị những kiến thức, kĩ năng cơ bản về bệnh của trẻ, đảm bảo an toàn cho trẻ để từ đó có thể áp dụng vào công tác tổ chức phòng bệnh, đảm bảo an toàn, phòng tránh tai nạn, biết phát hiện sớm, xử lí bước đầu và chăm sóc khi trẻ ốm, bị tai nạn. Ngoài ra, chúng ta cần cung cấp kiến thức và kĩ năng về giáo dục phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ mầm non nhằm đáp ứng với việc thực hiện chương trình đổi mới chăm sóc và giáo dục mầm non để góp phần giáo dục phát triển toàn diện về đức- trí- lao- thể- mỹ cho trẻ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ ở trường mầm non”. 2. Cơ sở lý luận: Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc triển khai các giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn các hiểm họa do tai nạn thương tích (TNTT) gây nên, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác phòng chống TNTT. Chính sách quốc gia phòng chống TNTT được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 197/2001/QĐ-TTg ngày 27/12/2001 nêu rõ: "TNTT là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tử vong, bệnh tật và khuyết tật ở Việt Nam"; " Cần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, từ đó thay đổi hành vi, nếp sống phù hợp nhằm hạn chế những TNTT". Một trong các giải pháp phòng chống TNTT được đặt ra trong quyết định 197/2001/QĐ-TTg là: "Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục về phòng chống, tiến hành lồng ghép, kết hợp trong sinh hoạt chính trị của các cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư. Nội dung giáo dục bao gồm chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề phòng, chống TNTT, bảo đảm an toàn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời, giáo dục để mọi người nâng cao hiểu biết về các nguy cơ có khả năng xẩy ra và hiểu cách phòng chống TNTT trong các trường học". Trong những năm gần đây, công tác nghiên cứu, điều tra, khảo sát về TNTT ở Việt Nam đã bắt đầu được triển khai khẩn trương hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, ở trường mầm non rất ít đề tài nào nghiên cứu về lĩnh vực này. Trước những yêu cầu bức xúc của thực tiễn và những bất cập còn tồn tại trong 5 cho trẻ hành trang bước vào lớp 1 cấp tiểu học là cần thiết. Ngoài việc tập trung cung cấp và rèn luyện các kỹ năng trong cuộc sống cho trẻ như: Kỹ năng tự phục vụ bản thân, kiến thức về LQVT, ngôn ngữ... thì vấn đề chăm sóc sức khỏe và đặc biệt việc phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ là vô cùng quan trọng. Vì vậy tôi đã vận dụng một số biện pháp sau : + Khi lên lớp cô thường nói nhiều hơn trẻ, các kiến thức chủ yếu được cô truyền thụ bằng lời cho trẻ, trẻ ít được tự mình trải nghiệm khám phá về cách phòng chống tai nạn thương tích , đảm bảo an toàn cho trẻ. + Hệ thống câu hỏi cho trẻ còn mang tính chất áp đặt, chưa có các câu hỏi mở để trẻ được tư duy, suy nghĩ. + Việc sử dụng và đưa công nghệ thông tin còn hạn chế. + Đồ dùng, đồ chơi được đưa vào giảng dạy cồn chưa phong phú, độ an toàn chưa cao, chưa có tính thẩm mỹ. Những biện pháp trên đã được đưa vào để hướng dẫn trẻ và đã có một số kết quả khả quan, giúp trẻ có một môi trường học tập an toàn, tuy nhiên về kỹ năng thực hiện cách phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ còn hạn chế ,trẻ vẫn còn gặp phải một số tai nạn thương tích nhỏ. Để thấy được mức độ đảm bảo an toàn cho trẻ trong các hoạt động, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ trong lớp mình và thu được kết quả như sau: 3.3. Kết quả khảo sát đầu năm: Trẻ có nhận biết về vật, nơi Trẻ chưa có nhận biết về vật, Năm Số trẻ nguy hiểm nơi nguy hiểm học Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ % 2018- 28 19 67,86 9 32,14 2019 Qua kết quả thể hiện trên bảng khảo sát tôi nhận thấy trẻ nhận biết được các đồ vật, những nơi nguy hiểm, các vật dụng nguy hiểm cho trẻ còn chưa cao, một số trẻ vẫn còn chơi với đồ vật và những nơi nguy hiểm. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ như sau: 7 Với những đồ chơi hiện nay đa phần là đồ chơi xuất xứ từ Trung Quốc, với nhiều chất liệu nhựa độc hại như chì, các chất gây rối loạn nội tiết, gây ung thư một số là loại nhựa giòn dễ vỡ gây nguy hiểm vì vậy khi chọn lựa đồ chơi cho trẻ giáo viên cần lưu ý chọn cho trẻ đồ chơi có xuất xứ rõ ràng, các thông số về kỹ thuật cũng như chất liệu tạo thành được nhà sản xuất ghi đầy đủ, rõ ràng trên bao bì sản phẩm đảm bảo an toàn cho trẻ khi chơi. Song song với việc loại bỏ đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm thì giáo viên phải luôn cẩn trọng với đồ dùng của cô như: dao, kéo, thước kẻ, súng bắn nếnkhi dùng song phải cất gọn đúng nơi quy định, cất cao khỏi tầm tay với của trẻ. Báo ngay với BGH nếu trong lớp có đồ dùng, đồ chơi bị hỏng để thay đồ dùng đồ chơi mới ngay đảm bảo an toàn và có đồ chơi cho trẻ kịp thời. Việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng, đồ chơi mầm non nguy hiểm hàng ngày là việc dễ làm và đơn giản giúp phòng tránh tai nạn thương tích và dị vật đường thở cho trẻ rất hiệu quả ở lứa tuổi nhà trẻ, nhờ việc thường xuyên loại bỏ đồ dùng đồ chơi nguy hiểm giờ đây đồ dùng đồ chơi lớp tôi luôn đảm bảo được an toàn cho trẻ. Lớp tôi không có trường hợp nào bị tai nạn do bị hóc sặc, trầy sước do đồ chơi hư hỏng hay đồ chơi nhỏ. 4.2: Xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học an toàn. Trường mầm non nơi tôi công tác được xây dựng từ những năm trước nên phòng học còn rất chật hẹp, mái nhà còn bị nứt, khi mưa bị thấm nước ảnh hưởng đến các hoạt động và học tập của trẻ, bản thân là người giáo viên mầm non ngày ngày tiếp xúc với trẻ tôi đã nhận thấy một số bất cập về cơ sở vật chất vì thế tôi đã mạnh dạn đề xuất ý kiến với ban giám hiệu, được sự nhất trí của ban giám hiệu và sự ủng hộ của phụ huynh. Nhà trường đã có những biện pháp sửa chữa, nâng cấp một số khu vực để đảm bảo an toàn cho trẻ. Những năm trước nhà vệ sinh khi xây dựng còn chưa có mái che, trẻ đi vệ sinh bị mưa ướt, nắng ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ, được nhà trường lưu tâm chú ý, nâng cấp sửa mái vệ sinh, xử lý các bể phốt bị tắc. Giờ đây nhà vệ sinh luôn róc nước, khô thoáng, có mái che, để đảm bảo cho trẻ không bị trượt ngã do trơn khi vào vệ sinh, trẻ không bị mưa, nắng khi đi vệ sinh. 9 Hoạt động học: Thường ít gây ra tai nạn nhưng ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Trẻ có thể đùa nghịch chọc bút vào mặt nhau, chọc vào mắt nhau. Nhất là với các hoạt động sử dụng đất nặn cần chú ý không đẻ trẻ nghịch đất nặn nhét vào tai, mũi của nhau rất nguy hiểm. + Không sử dụng các loại chai, lọ đựng thuốc, đựng màu độc hại làm đồ chơi cho trẻ. + Giáo viên luôn lồng ghép, tích hợp giáo dục về an toàn cho trẻ trong mọi chủ đề, lồng ghép nội dung phòng tránh tai nạn thương tích vào chương trình giáo dục. Với chủ đề "Gia đình của bé": lồng ghép các câu hỏi: “những đồ dùng nào trong gia đình có thể gây nguy hiểm trẻ không được đến gần”( các đồ dùng sử dụng điện, phích đựng nước nóng, dao, kéo) Chủ đề "Bé với phương tiện giao thông ": biển báo giao thông đơn giản, đèn tín hiệu, khi tham gia giao thông các bé cũng phải nhớ đội mũ bảo hiểm, khi ngồi trên tàu xe phải ngồi yên, không thò đầu ra ngoài cửa số... Còn chủ đề “ Trường mầm non của bé": khi chơi đồ chơi phải như thế nào, nếu đưa vào miệng sẽ bị làm sao Trong chủ đề "Thế giới thực vật": Giáo dục trẻ không được leo trèo lên cành cây sẽ bị ngã rất nguy hiểm. Cho trẻ làm quen với những biển cấm, biển báo nguy hiểm, cảnh báo những đồ vật gây nguy hiểm và những nơi nguy hiểm trẻ không được đến gần. Hoạt động ngoài trời: Trong giờ chơi vì ở ngoài trời, trẻ rất ham chơi nên có thể gặp các tai nạn như: Chấn thương phần mềm, rách da, gãy xươngnguyên nhân thường do trẻ đùa nghịch, xô đẩy nhau, dùng que làm kiếm nghịch, đấu kiếm, chọc vào nhau và trẻ có thể vô tình chọc vào mắt gây chấn thương. Ngoài ra, trẻ còn chơi đùa cầm gạch, sỏi, đá ném nhau hoặc chạy nhảy va vào các bậc thềm gây chấn thương.Vì vậy trước khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời cô chú ý đếm trẻ, kiểm tra khu vực sân trẻ quan sát có chủ đích. Giao hẹn sân chơi quy định, phải đảm bảo đó là nơi thoáng mát Không để trẻ 11 + Khi cho trẻ ăn các quả tráng miệng lên chọn các loại quả không có hạt nếu có hạt cần chú ý bóc bỏ hạt trước khi đưa lên lớp. + Thận trọng khi cho trẻ uống thuốc, đặc biệt là các thuốc dạng viên. Hoạt đông giờ ngủ: Khi trẻ chuẩn bị lên giường giáo viên chú ý xem trẻ còn ngậm thức ăn trong miệng không, kiểm tra tay, túi quần áo xem có vật nhỏ lạ, các loại hạt, kẹo cứng, đồ chơi trên người trẻ tránh trường hợp khi ngủ trẻ trêu ghẹo nhét vào miệng, mũi, tai. Để dị vật rơi vào đường thở gây ngạt thở. + Phòng ngủ phải được thông thoáng tránh trường hợp khi trẻ ngủ trẻ hít phải khí độc từ các nguồn gây ô nhiễm không rất dễ bị ngộ độc. + Giáo viên luôn bao quát trẻ không để trẻ ngủ lâu trong tư thế nằm sấp xuống đệm, úp mặt xuống gối sẽ thiếu dưỡng khí gây ngạt thở. Giờ chơi tự do trong lớp: Khi chơi trong lớp, trẻ có thể gặp các tai nạn như dị vật mũi, tai do trẻ tự nhét đồ chơi ( hạt cườm, con xúc sắc, các loại hạt quả, đất nặn) vào mũi, tai mình hoặc nhét vào tai bạn, mũi bạn. Trẻ hay ngậm hoặc chọc đồ chơi vào mồm gây rách niêm mạc miệng, hít vào gây dị vật đường thở, nuốt vào gây dị vật đường ăn.Vì vậy cô không cho trẻ cầm các đồ chơi quá nhỏ, tránh trường hợp trẻ cho vào miệng mũi. + Trẻ chơi tự do trong nhóm, giáo viên không cho trẻ chạy, xô đẩy nhau tránh va vào thành bàn, cạnh ghế, mép tủcó thể gây chấn thương. + Không nên để trẻ một mình vào nơi chứa nước kể cả xô chậu nước, khi dùng xong giáo viên cần đổ hết nước, úp xô, chậu, đảm bảo các xô, thùng không chứa nước trong nhà vệ sinh. Giám sát khi trẻ đi vệ sinh, khi trẻ chơi gần khu vực có chứa nguồn nước. Bằng việc thường xuyên giám sát, ở gần trẻ tôi đã loại bỏ được hết những tai nạn có thể xảy ra. Đồng thời trẻ lớp tôi đã nhận biết được một số nguy cơ gây nguy hiểm cho bản thân và biết cách phòng tránh. 4.4: Tự học tập, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ. Giáo viên mầm non là người trực tiếp chăm sóc trẻ khi ở lớp, vì vậy bồi dưỡng kiến thức về phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ là rất quan trọng. 13
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_phong_chong.doc