Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường Mầm non
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường Mầm non
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp. Sinh thời Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Trẻ em hôm nay Thế giới ngày mai” Đúng vậy, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha anh, gánh vác mọi công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Khi xã hội ngày càng phát triển thì giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Trẻ em là những chủ nhân tương lai đất nước, chính vì thế ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ phải được hưởng chế độ chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi mặt về đức - trí - thể - mỹ. Để đạt được mục tiêu giúp trẻ phát triển toàn diện thì ta cần phải kết hợp hài hoà giữa nuôi dưỡng chăm sóc sức khoẻ và giáo dục đó là điều tất yếu. Đặc biệt, trẻ trong giai đoạn từ 0-6 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển nhanh hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời. Đây là giai đoạn cơ thể trẻ rất non nớt, dễ bị lây nhiễm các chất độc hại từ các loại thực phẩm không an toàn. Giai đoạn này bản thân trẻ nhỏ chưa ý thức được việc chăm sóc sức khỏe của bản thân. Sự phát triển của trẻ phụ thuộc rất lớn vào việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe của người lớn. Muốn trẻ khoẻ mạnh, thông minh thì vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ vô cùng quan trọng, mà cốt lõi là công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở các trường Mầm non. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, Nhà nước cùng với sự phát triển chung của xã hội, mỗi gia đình đều có cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn, trình độ dân trí cũng ngày được nâng cao lên rõ rệt. Chính vì vậy mà việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng được gia đình và xã hội đặc biệt quan tâm hơn. Vậy quan tâm như thế nào là đúng mực, đúng cách để cơ thể trẻ ngày càng được khoẻ mạnh hơn, trẻ học tập tốt hơn, phát triển cân đối thì trước tiên chúng ta phải có một chế độ ăn uống cho trẻ một cách hợp lý, khoa học nhằm giúp trẻ ăn uống ngon miệng ăn hết suất nhưng luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với trẻ đó mới chính là vấn đề hết sức quan trọng ở trong trường Mầm non. Dinh dưỡng cho trẻ trong những năm đầu đời là tiền đề, là điều kiện cần và đủ cho sự phát triển về mọi mặt sau này của đứa trẻ một cách toàn diện. Trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo còn quá nhỏ nên gần như hoàn toàn trẻ phải dựa vào sự giúp đỡ, phục vụ của các cô giáo trong việc chơi, học, ăn, ngủ, của trẻ. Bên cạnh vai trò đặc biệt quan trọng của người giáo viên trực tiếp dạy dỗ, chăm sóc trẻ thì bếp ăn bán trú với số lượng trẻ đông thì việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường là điều hết sức quan trọng. Ở lứa tuổi mầm non trẻ rất dễ bị tổn thương bởi các yếu tố có hại của ngoại cảnh ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ, nếu chúng ta không chăm sóc cho trẻ một cách cẩn thận thì trẻ dễ bị các yếu tố ngoại cảnh đó làm ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ. Chính vì vậy mà ngộ độc thực phẩm là một trong những yếu tố có nguy cơ cao ảnh hưởng tới sức diện từ đó giúp trẻ học và chơi đạt kết quả tốt hơn. Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết được của bản thân, chủ yếu là những giải pháp nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại trường mầm non nơi tôi đang công tác với số lượng 8 nhóm lớp/183 trẻ có hiệu quả và đề tài có thể áp dụng cho các trường mầm non khác trong địa bàn huyện nói riêng và có thể áp dụng rộng rãi đối với các trường mầm non trong tỉnh nói chung. 2. phÇn néi dung 2.1. Thực trạng của vấn đề mà đề tài, sáng kiến, giải pháp cần giải quyết Trong những năm gần đây đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm ở các địa phương, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của nhiều người. Nhà trẻ, mẫu giáo là nơi tập trung đông trẻ, bản thân trẻ còn non nớt, chưa chủ động, ý thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, nếu để xảy ra ngộ độc thực phẩm trong các cơ sở GDMN thì hậu quả thật khôn lường. Vì vậy, giáo dục dinh dưỡng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng mô hình thực phẩm sạch, đề phòng ngộ độc thức ăn là vấn đề có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng. *Quy mô trường lớp Toàn trường có 8 lớp/183 trẻ Trong đó: Nhà trẻ: 02 nhóm/40 trẻ; Mẫu giáo: 06 lớp/143 trẻ. *Cơ sở trang thiết bị Toàn trường có 08 phòng học đảm bảo kiên cố, có 02 phòng chức năng khác. Có 100% công trình vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn. Có 3 cụm với 3 bếp ăn 1 chiều đảm bảo đúng tiêu chuẩn, có đủ đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho việc nấu ăn, chế biến thực phẩm cho trẻ. *Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên: Tổng số: 25 đ/c (Ban giám hiệu: 03, giáo viên: 17, nhân viên: 05 100% cán bộ giáo viên, nhân viên đạt chuẩn trở lên, trên chuẩn 21/25 đ/c; tỷ lệ 84% Tổng số học sinh ăn bán trú tại trường là 08 lớp/183 trẻ, với mức ăn là 12.000đ/ ngày/ trẻ. *Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ: Qua theo dõi cân đo lên biểu đồ tăng trưởng đầu năm học kết quả cho thấy như sau: Cân nặng Chiều cao Suy Suy Cân nặng Thấp dinh dinh Cao bình Thấp còi Tổng bình còi Độ tuổi dưỡng dưỡng thường độ 1 số trẻ thường độ 2 độ 1 độ 2 Sl Tỷ Sl Tỷ Sl Tỷ Sl Tỷ Sl Tỷ Sl T lệ lệ lệ lệ lệ ỷ Đội ngũ trẻ nên có nhiều đồng chí trong độ tuổi sinh đẻ và nuôi con nhỏ (trong năm có 03 đồng chí GV nghỉ sinh) nên có phần ảnh hưởng đến công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Từ những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Trước tình hình thực trạng về chất lượng an toàn thực phẩm của nhà trường, tôi suy nghĩ tìm tòi và sử dụng một số biện pháp quản lý chỉ đạo, nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường mầm non như sau: 2.2 Một số biện pháp: Biện pháp 1: Triển khai chỉ đạo Chỉ đạo giáo viên và nhân viên thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản quy phạm pháp luật, công văn hướng dẫn nhiệm vụ năm học về VSATTP; tổ chức tập huấn bồi dưỡng kiến thức VSATTP cho cán bộ giáo viên, nhân viên, đặc biệt đội ngũ nhân viên cấp dưỡng tại trường, tăng cường tuyên truyền VSATTP cho cha mẹ của trẻ và nhân dân địa phương. Làm tốt công tác phân công phân nhiệm, thực hiện có hiệu quả việc nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ đề ra các chỉ tiêu cần đạt về số lượng, chất lượng, nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Xây dựng kế hoạnh chỉ đạo tốt các hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ. Vào đầu năm học nhà trường tổ chức họp Ban giám hiệu nhà trường và Ban đại diện cha mẹ trẻ thống nhất về chế độ ăn uống, xây dựng thực đơn. Sau đó mời các nhà cung cấp thực phẩm (Thịt, cá, rau, gạo, trứng, sữa ) về ký hợp đồng. Nguồn thực phẩm cung cấp phải đủ về số lượng, đảm bảo điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả hợp lý theo thị trường địa phương. Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất đồ dùng, thiết bị cho việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ngay từ đầu năm học. Đưa nội dung vệ sinh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm vào chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non, tăng cường giám sát công tác vệ sinh nói chung và vệ sinh an toàn thực phẩm nói riêng. Phối hợp có hiệu quả với các đoàn thể trong và ngoài nhà trường về phổ biến kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đội ngũ nhân viên nấu ăn, tăng cường tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm đến các bậc cha mẹ học sinh và nhân dân. Về chất lượng giáo dục: Chỉ đạo các lớp thực hiện đúng quy chế nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Thực hiện tốt các chuyên đề, đổi mới phương pháp giảng dạy tích hợp nội dung giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực phẩm vào các giờ học, các hoạt động khác trong ngày. Làm tốt công tác tuyên truyền tới các bậc phụ huynh về công tác thực hiện chuyên đề. Công tác vệ sinh của nhà bếp luôn luôn sạch sẽ, không để bụi bẩn, có đủ dụng cụ cho nhà bếp chế biến và đồ dùng ăn uống cho trẻ. Ngoài ra trong nhà bếp có bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người thực hiện. Bếp thực hiện quy trình một chiều để đảm bảo vệ sinh. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn thể cán bộ viên chức trong nhà trường tham gia ngay vào đầu năm học. Nhà bếp luôn luôn hợp vệ sinh, đảm bảo bếp không bị bụi, có đủ dụng cụ cho nhà bếp và đồ dùng ăn uống cho trẻ, có đủ nguồn nước sạch cho trẻ phục vụ ăn uống. Ngoài ra trong nhà bếp có bảng tuyên truyền 10 nguyên tắc vàng về vệ sinh an toàn thực phẩm cho mọi người cùng đọc và thực hiện. Phân công cụ thể ở các khâu: chế biến theo thực đơn, theo số lượng đã quy định của nhà trường, đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và hợp vệ sinh. Thùng chứa rác phải có nắp đậy, không để rác rơi vãi ra xung quanh và nước thải rò rỉ ra bên ngoài, rác thải phải được tập trung xa nơi chế biến, phục vụ ăn uống phải chuyển đi hàng ngày không để ứ đọng, cống rãnh phải thường xuyên khai thông. Bếp ăn cho trẻ cần được thiết kế theo đúng quy chuẩn bếp ăn một chiều (nghĩa là đi từ khu vực thức ăn sống đến khu vực thức ăn chín). Mỗi trẻ có một bát ăn, muỗng, ly uống nước riêng bằng inox và được đánh dấu bằng ký hiệu riêng của từng trẻ. Trước và sau khi chế biến, sau khi ăn cần phải vệ sinh sạch sẽ tất cả dụng cụ chế biến cũng như khu vực nhà bếp, tránh để ủ lâu ngày là điều kiện cho ruồi nhặng đậu bám vào gây mất vệ sinh và ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ. *Bảo quản thực phẩm: + Để riêng thực phẩm sống và chín: nếu để thực phẩm như thịt, thủy sản, rau quả tiếp xúc với thực phẩm chín, thì các sinh vật gây ngộ độc trong thực phẩm sống có thể nhiễm sang thực phẩm chín. + Để riêng thực phẩm sống và chín bằng cách: Bảo quản thực phẩm trong các dụng cụ chứa đựng riêng biệt; sử dụng riêng biệt dụng cụ dùng cho thực phẩm chín và sống; không dùng khăn đã sử dụng trong chế biến thực phẩm sống cho các thực phẩm khác. + Chế biến thực phẩm đúng cách: Thịt gia súc, gia cầm, trứng và thuỷ sản đều phải nấu chín kĩ để tiêu diệt các vi sinh vật gây ngộ độc có trong thực phẩm. Các loại rau, quả tươi phải được ngâm kỹ và rửa ít nhất 3 lần bằng nước sạch, rửa dưới vòi nước chảy. + Sử dụng nguyên liệu an toàn: Mua thực phẩm ở những nơi tin cậy, biết rõ nguồn gốc, cần kiểm tra cảm quan thực phẩm (sự biến đổi về hình dáng bên ngoài, có mùi, bao gói bị rách, có dấu hiệu của gián, chuột và côn trùng, biến đổi về màu sắc ) Không mua thực phẩm ngoài danh mục cho phép của Bộ Y tế. Chỉ mua phụ gia thực phẩm nếu trên nhãn có đầy đủ thông tin (tên phụ gia, tên và địa chỉ nơi sản xuất và có hạn dùng, hướng dẫn sử dụng) Biện pháp 3: Chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng xây dựng thực đơn dinh dưỡng cho trẻ phù hợp với thực tế nhà trường và địa phương do đó hàng ngày tôi chọn cho trẻ ăn những món ăn đa dạng và thay đổi từng ngày, từng bữa để hấp dẫn trẻ. Ngoài việc cân đối khẩu phần ăn cho trẻ tôi còn lập kế hoạch tuyên truyền hàng tháng và cả năm học về các vấn đề liên quan đến dinh dưỡng, vệ sinh phòng bệnh vì thực phẩm vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non, nếu sử dụng thực phẩm không tốt, không đảm bảo vệ sinh rất dễ xảy ra ngộ độc. Tuyên truyền tới toàn thể các nhóm lớp, kết hợp với hội cha mẹ học sinh cho trẻ chơi “Bé tập làm nội trợ”, hoặc thông qua các trò chơi để làm cho bé luôn cảm thấy ngon miệng và phấn khích trẻ trước mỗi bữa ăn. Chỉ đạo nhân viên y tế phối hợp với Ban đại diện hội cha mẹ học sinh kiểm tra thường xuyên, kiểm tra đột xuất tại bếp ăn. Kiểm tra thực phẩm vì thực phẩm là khâu quan trọng có tính quyết định đến chất lượng và sự ngon miệng trong bữa ăn của trẻ. Người nhận thực phẩm tại trường phải có trách nhiệm có kiến thức để có thể nhận biết được các thực phẩm tươi, sạch hoặc không đảm bảo vệ sinh an toàn. Biện pháp 4: Công tác vệ sinh môi trường: a. Nguồn nước: Nước là một loại nguyên liệu không thể thiếu được và nó được sử dụng nhiều công đoạn chế biến thực phẩm và vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày đối với trẻ. Nước nhiễm bẩn sẽ taọ nguy cơ không tốt đến sức khoẻ của trẻ. Nếu dùng nước an toàn trong chế biến thực phẩm phải là nước sạch lấy từ giếng khoan, nước máy, nước giếng và nước cũng phải được kiểm định về vệ sinh thường xuyên. Nhà trường đã sử dụng nguồn nước sạch và luôn được sát trùng, nếu có biểu hiện khác thường thì nhân viên nhà bếp báo ngay cho nhà trường và nhà trường báo ngay với cơ quan y tế để điều tra và xử lý kịp thời nếu nước nhiễm bẩn sẽ gây ra ngộ độc thức ăn trong ăn uống, và các chứng bệnh ngoài da của trẻ. Nước uống của trẻ, trẻ uống nước khoáng Bang đóng bình và nhà trường đã tiến hành hợp đồng với nhà cung cấp nước uống cho trẻ đảm bảo, tất cả các lớp đều có số lượng ca cốc đủ cho số lượng trẻ ở trong lớp và ca cóc của trẻ được rửa thường xuyên. b. Xử lý chất thải: Nhà trường tổ chức cho trẻ ăn bán trú nên có rất nhiều loại chất thải khác nhau như: Nước thải, khí thải, rác thải Nước thải từ nhà bếp, khu vệ sinh tự hoại, rác thải từ rau củ, rác từ thiên nhiên lá cây, các loại nilông, giấy lộn, đồ sinh hoạt thừa, vỏ hộp sữa yêu cầu nhân viên phân loại để xử lý vì nếu không có biện pháp xử lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi trường. Các loại rác thải là nơi tập trung và phát triển của các loại côn trùng và chúng bay đến đậu nơi thức ăn cũng sẽ gây nên các mầm bệnh, ngộ độc thức ăn ở trường. Các chất thải ra phải cho vào thùng rác và có nắp đậy. Rác thải được thu gom và xử lý hàng ngày, vì vậy khuôn viên trường lớp không có rác thải tồn đọng và mùi hôi thối. Đối với những loại rác thải khô yêu cầu nhân viên phơi khô và đốt nơi xa trung tâm, với những loại rác ẩm ướt được đào hố sâu lấp kỹ từ 5-10 phân đất lên mặt tránh
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_dam_bao_ve_sinh_an_to.doc