Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4-5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4-5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ lớp 4-5 tuổi D trường mầm non Đồng Tĩnh khám phá khoa học
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và Chính vì vậy trẻ em như tờ giấy trắng mà cha mẹ các con rất kỳ vọng vào sự tô vẽ của thầy cô. Bậc học mầm non là bậc học đầu tiên của trẻ, có thể nói việc hình thành, rèn luyện ở trẻ những nhân cách ban đầu để trẻ trở thành công dân tý hon hoàn thiện như: Cơ thể khỏe mạnh, thông minh nhanh nhẹn, ngoan ngoãn lễ phép, Có những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống đó chính là trách nhiệm của giáo viên mầm non. Đối với trẻ nhỏ, mọi sự vật hiện tượng tự nhiên luôn là điều hấp dẫn nhưng cũng thật lạ lẫm khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá trong suốt cuộc đời và C.Mác cho rằng “Tự nhiên là nguồn gốc của các tri thức cụ thể đầu tiên của con người và nó thường để lại cho chúng ta cảm giác sung sướng được lưu giữ suốt đời”. Chính vì vậy “khám phá khoa học” được coi là một nội dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trong và cần thiết đối với trẻ, hoạt động này góp phần tích cực trong việc giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ và thể lực Khám phá khoa học giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về sự vật hiện tượng tự nhiên, đây là cơ sở để trẻ giải quyết những tình huống trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, tham gia vào các hoạt động đa dạng và phong phú khác ở trường mầm non như hoạt động tạo hình, hoạt động làm quen với toán , đồng thời còn là những kiến thức khoa học sau này ở trường phổ thông. Mặt khác “khám phá khoa học” còn giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, các thao tác tư duy, cũng như góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất của trí tuệ góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển các kỹ năng nhận thức. Đặc biệt đối với trẻ 4-5 tuổi “Khám phá khoa học” không chỉ giúp trẻ phát triển các giác quan, kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức, mà còn thoả mãn tính ham hiểu biết, tích cực tìm tòi, khám phá trải nghiệm nhằm phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu bên trong các sự vật hiện tượng, từ đó giúp trẻ hình thành những khái niệm sơ đẳng ban đầu. Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải hình thành củng cố mở rộng vốn tri thức của trẻ, đồng thời phải rèn luyện và phát triển các năng lực và hành vi ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên. 1 * Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng giáo dục khám phá khoa học: Nhằm nâng cao hiệu quả khám phá khoa học cho trẻ, giúp trẻ say mê khám phá, phát triển tính sáng tạo và mở rộng kiến thức cho trẻ, phát triển tư duy, ngôn ngữ, củng cố các kĩ năng nhận thức, rèn khả năng tri giác, phân tích, so sánh, tổng hợp, hình thành những xúc cảm, tình cảm tích cực cũng như cung cấp kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi cho trẻ. Giúp giáo viên có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ phù hợp với chương trình giáo dục mầm non. Giúp cho nhà trường đào tạo cho xã hội nguồn nhân lực phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, lao động, góp phần vào sự nghiệp trồng người của đất nước. 6.1.2. Thực trạng: Trường Mầm non Đồng Tĩnh nằm trên địa bàn của xã Đồng Tĩnh – huyện Tam Dương thuộc khu vực miền núi. Cơ sở vật chất cũng như chất lượng của đội ngũ CBGV còn rất nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được nhu cầu của người học. Năm học 2016 - 2017, trường có tổng số CBGV-NV trong trường là: 26 . Tổng số nhóm, lớp: 15 lớp Trong đó tổng số trẻ là: 442 trẻ. Số phòng học: 11 phòng (trong đó có 6 phòng học tạm, học nhờ). * Thuận lợi: - Đội ngũ giáo viên trong trường luôn đoàn kết, thống nhất. - Cho giáo viên đi học nâng cao trình độ chuyên môn. Vào các dịp hè chúng tôi được đi học bồi dưỡng bồi dưỡng chuyên môn của phòng giáo dục và đào tạo. Dự các buổi chuyên đề về hoạt động tạo hình của phòng, của trường, dự giờ đồng nghiệp tạo điều kiện cho tôi được học tập, củng cố kiến thức nghiệp vụ. - Giáo viên có kế hoạch chương trình ngay từ đầu năm. - Soạn bài chi tiết, sắp xếp hợp lý các nội dung cần truyền đạt, phân bố thời gian cho từng phần phù hợp, nghiên cứu bài và phương pháp bộ môn có chuẩn bị đủ và sử dụng cho cô và trẻ trong hoạt động. - Đa số trẻ được ăn ngủ bán trú tại lớp (20/20 cháu). Tỉ lệ chuyên cần đạt 98%. - Bản thân tôi là giáo viên mới vào nghề chưa lâu vì vậy mà tôi đã dày công suy nghĩ về các phương thức và cách thức làm sao dạy trẻ tốt nhất và mang lại sự vui vẻ hòa đồng, tự tin cho trẻ khi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ. Là một giáo viên nhiệt tình, năng động, sáng tạo trong công tác, tâm huyết với nghề, có lòng 3 Nội dung Tốt Khá TB Yếu Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ Số Tỉ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ trẻ lệ Trẻ tích cực tham gia khám phá 12 48% 6 24% 4 16% 3 12% Trẻ có khả năng quan sát ghi nhớ 8 32% 8 32% 6 24% 3 12% Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so sánh, 7 28% 8 32% 5 20% 5 20% tổng hợp. Kết quả thể hiện ở bảng trên cho thấy kết quả hoạt động khám phá khoa học ở trẻ chưa cao. Với khả năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân, tôi tin chắc rằng mình sẽ giúp trẻ có được sự yêu thích, tích cực tham gia khám phá, có khả năng quan sát, ghi nhớ và cao hơn nữa là trẻ có kĩ năng phân tích, so sánh, tổng hợp. 6.1.3. Một số biện pháp khám phá khoa học cho trẻ lớp 4 -5 tuổi D. Biện pháp 1: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá khoa học. Lựa chọn nội dung khám phá - thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ. Dựa trên kế hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung trong chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian, thời điểm thực hiện bài tập ở vào giai đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức độ phát triển, khả năng thực tế của trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung khám phá cho trẻ, xác định độ khó của từng bài tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi từ dễ đến khó. Nội dung trong chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ đề chủ điểm, phù hợp với các hoạt động khác và các sự kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức tôi thấy rất yên tâm và thực hiện rất hiệu quả. Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả tốt thì việc lựa chọn nội dung khám phá cũng như những thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ là rất cần thiết và quan trọng. Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng của trẻ trong lớp để làm căn cứ xây dựng kế hoạch hoạt động khám phá khoa học cho hợp lý và phù hợp với sự nhận thức của trẻ. Đầu năm tôi chưa chú ý đến việc lựa chọn nội dung – thí nghiệm cho trẻ khám phá. Tôi thường chọn những nội dung khám phá quá cao so với khả năng nhận thức của trẻ như: Hoạt động khám phá về quy trình làm bánh trung thu hay thí nghiệm pha màu nước để giao bài tập cho trẻ hoạt dẫn đến đa số trẻ trong lớp tôi không có kỹ năng khám phá, làm cho tiết học đạt kết quả không cao. 5 kết luận: Nước có thể thay đổi về vị tuỳ theo chúng ta cho thêm đường hoặc muối hay nước cam, chanh Bên cạnh đó tôi luôn quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong lớp thông qua quá trình trẻ thực hiện các hoạt động. Từ đó tôi đánh dấu những trẻ cần được đưa những câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi khó hơn hoặc thực hiện những bài tập phức tạp hơn để tránh tình trạng những trẻ nhận thức hạn chế cũng thực hiện những bài tập khó giống như những trẻ có khả năng nhận thức tốt, dẫn đến những trẻ đó thường bị thụ động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động khám phá cùng bạn. Như trong chủ đề “Bản thân” cháu Quốc Bảo sự nhận thức còn hạn chế, tôi đưa câu hỏi dễ như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì?Mũi dùng để làm gì? ) để trẻ trả lời được, từ đó tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc giúp trẻ bạo dạn và tự tin vào bản thân mình hơn. Còn cháu Huyền Diệu sự nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát triển tốt tôi đặt ra những bài tập hay câu hỏi khó như: Tôi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bịt mũi lại? hay tại sao con lại nghĩ số người và số khăn mặt lại bằng nhau? để tránh gây cho trẻ sự nhàm chán trong quá trình khám phá. Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm cũng như việc đặt câu hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ mà tôi thấy các hoạt động khám phá tôi đưa ra cho trẻ đều được trẻ hưởng ứng nhiệt tình. Trẻ lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn trong việc thảo luận cũng như tìm ra kết quả nhanh nhất để hoàn thành công việc mình đang làm. Biện pháp 2. Dạy trẻ khám phá khoa học trong giờ hoạt động chung: Đầu năm ở các tiết học khám phá tôi tôi vẫn thường ôm đồm nhiều nội dung trong một hoạt động khám phá và tôi vẫn nói nhiều. Điều này làm cho các hoạt động khám phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được tham gia các hoạt động khám phá phù hợp với khả năng. Vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ khả năng nhận thức, khám phá. Hơn nữa tôi chỉ sử dụng tranh ảnh rồi đặt các câu hỏi và trả lời của trẻ, cũng có khi tôi lại là người nói còn trẻ chỉ nghe một cách thụ động, dẫn đến giờ học trở nên nhàm chán, không đạt kết quả cao. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn sử dụng vật thật kích thích các giác quan của trẻ hoạt động, trẻ được trực tiếp quan sát, phân tích so sánh tự mình rút ra một kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ thích thú và hứng thú tham gia vào hoạt động khám phá. Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số con vật sống dưới nước (con cá, con tôm, con cua). Tôi cho trẻ cho trẻ trực tiếp quan sát các đặc điểm của con vật theo từng nhóm (Nhóm 1: Quan sát con cua, Nhóm 2: Quan sát con cá, Nhóm 3: Quan sát con tôm. (Hình 2) 7 ngắn gọn: Đúng rồi con cá có vây và thở bằng mang nên khi có nước con cá thở được và chúng ta nhìn thấy những bong bóng sủi lên, còn khi ở trên cạn con cá sẽ khó thở và sẽ có hiện tượng cá nhảy và quẫy, nếu để lâu trên cạn con cá sẽ bị chết. Tôi thả ngay cá vào chậu nước tránh để trẻ nhìn thấy cá bị chết. Song với bài dạy trên nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc cho trẻ quan sát thì mục tiêu của bài dạy mà tôi đưa ra cho trẻ là không hiệu quả như mong muốn . Bởi vì hoạt động khám phá đòi hỏi trẻ không chỉ biết quan sát, mô tả lại đặc điểm của chúng mà còn phải biết phân tích so sánh và tôi cho trẻ so sánh giữa các con vật Ví dụ: Con cá và con cua. Đây chính là hình thức để tôi kích thích trẻ tham gia vào quá trình phân tích so sánh giữa 2 đối tượng với hệ thống câu hỏi như: Con cá và con cua có điểm gì giống và khác nhau? Rất nhiều ý kiến khác nhau đã được đưa ra: Con cua có mai và có chân, con cá có vây và có đuôi; con cua biết bò còn con cá biết bơi Cuối cùng tôi khẳng định lại cho trẻ nghe về sự giống và khác nhau của con cá và con cua nhằm khắc sâu những kiến thức mà trẻ vừa khám phá. Để biết được trẻ nắm được kiến thức đến đâu trong quá trình khám phá, tôi khuyến khích trẻ mô tả, kể lại những điều trẻ phát hiện được dưới dạng một câu chuyện hoặc bằng hình vẽ và trong nhóm có thể bổ sung cho nhau (Hình 3). Trong quá trình thể hiện lại là trẻ đã đang tổng hợp lại những kiến thức mà trẻ vừa được quan sát, phân tích, so sánh. Trên cơ sở đó tôi phát hiện được khả năng quan sát, phân tích của từng trẻ để củng cố và bổ sung cho trẻ ở những giờ hoạt động khác. Hình 3 : Trẻ vẽ lại các con vật mình vừa quan sát 9 Hình 4: Trẻ đang làm thí nghiệm vật chìm vật nổi. Hay với bài dạy về “không khí”, Tôi cho trẻ làm thí nghiệm dưới hình thức tổ chức các trò chơi. Trò chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng mím lại và cho trẻ nói cảm nhận của mình khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời: thấy rất khó chịu, không thở được. Vậy làm thế nào để thở được? Cháu Minh Khôi trả lời: Con thưa cô muốn thở được phải bỏ tay ra, tôi nói: Chúng ta thở được là nhờ có không khí và tôi đặc ra vấn đề cho trẻ giải quyết như: Không khí có ở đâu? cháu Như Hoa thì nói con không biết, cháu Phương Anh thì nói không khí ở đây? Tôi hỏi vì sao con biết là ở đây có không khí thì cháu trả lời: Vì con thở được. Để xem bạn nói có đúng không, tôi cho trẻ đứng ở trong lớp, ngoài cửa, ngoài sân và hỏi trẻ có thở được không? Rồi tôi kết luận: Không khí có ở xung quanh chúng ta. Tôi tiếp tục đặt ra tình huống “Chúng ta có nhìn thấy không khí không?” “Có bắt được không khí không?” có cháu nói không bắt được, có cháu nói có bắt được, vậy làm thế nào để bắt được không khí? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy túi nilông để bắt không khí. Trò chơi 2: “Vợt không khí” Tôi phát cho mỗi trẻ một túi ni lông và yêu cầu trẻ vợt không khí vào túi rồi buộc lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ nói: Túi phồng to giống như quả bóng. Tôi hỏi: Vì sao túi lại phồng? Tôi giải thích cho trẻ biết “Vì trong túi có không khí”. Để biết điều đó có chính xác không, tôi chia trẻ làm 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_lop_4_5_tuoi.doc