Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Phượng

doc 22 trang skkn 26/01/2024 2980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Phượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Phượng

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Phượng
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5-6 TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA PHƯỢNG I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học tập, vui chơi, ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, trình tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có hình ảnh một nội dung nhất định. Vì thế, sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc của lời nói rất cần thiết, nó được phát triển ngay từ khi trẻ bắt đầu học nói. Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thực chất là rèn luyện khả năng tư duy ngôn ngữ và sử dụng lời nói để giao tiếp bởi vì sự mạch lạc của ngôn ngữ chính là sự mạch lạc của tư duy. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như : Môn làm quen với môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình mà điều tôi muốn nói ở đây đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen với tác phẩm văn học trẻ đọc thơ, Kể chuyên, đóng kịch tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ khả năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tốt, cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Qua làm quen tác phẩm văn học, vốn từ của trẻ được mở rộng, trẻ làm quen với cách dùng từ, cách đặt câu, cách diễn đạt, lời nói có vần, nhịp, nói có ngữ điệu tượng, sáng tạo là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, diễn đạt lưu loát, biết sử dụng từ đúng lúc đúng chỗ. 3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua môn làm quen văn học tại trường Mầm non Hoa phượng 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Học sinh 5- 6 tuổi trường Mầm non Hoa phượng 5. Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp điều tra + Phương pháp nghiên cứu thực tiễn + Phương pháp trao đổi đàm thoại + Phương pháp dùng tình cảm động viên, khích lệ. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, tôn trọng nó”. Do đó, việc dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Sự phát toàn diện của trẻ bao gồm cả phát triển về đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải ứng xử, giao tiếp cho phù hợp không chỉ là sự bắt chước máy móc. Ngôn ngữ phát triển sẽ giúp trẻ mở rộng giao tiếp. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm tiếp thu những lời hay, ý đẹp trong thơ ca, chuyện kể. Sự tác động của những lời nói, ngữ điệu giọng của cô giáo khi truyền cảm xúc của tác phẩm văn học là phương tiện tốt nhất để phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Lứa tuổi Mầm non là giai đoạn phát triển ngôn ngữ mạnh nhất. Lớp có tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho các môn học. Được sự tín nhiệm, tin tưởng của phụ huynh học sinh. * Khó khăn Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa rõ tiếng Việt. Khả năng chú ý của trẻ còn hạn chế, không đồng đều; Một số trẻ chưa mạnh dạn còn nhút nhát, thiếu tự tin, 50% là trẻ em dân tộc thiếu số(Ê đê) Kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động làm quen văn học. Khi tổ chức hoạt động nhiều lúc cô chưa phát huy hết tính sáng tạo của trẻ. Trong lúc dạy trẻ đọc thơ hay kể chuyện sáng tạo giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng đồ dùng, chưa biết vận dụng tích hợp các môn học khác và khả năng thể hiện diễn cảm còn hạn chế. 2.2. Thành công - hạn chế * Thành công Trẻ rất hứng thú với các hoạt động đặc biệt là hoạt động làm với văn học, trẻ tập trung chú ý khi nghe cô giáo đọc thơ, kể chuyện, trẻ hứng thú, thích thế hiện diễn cảm và kể chuyện sáng tạo Giáo viên nắm được phương pháp của môn làm quen với văn học, hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. * Hạn chế Tuy nhiên bên cạnh những thành công vẫn còn có những hạn chế nhất định như; một số trẻ còn thụ động, chưa thật sự mạnh dạn phát âm chưa rõ, trong quá trình kể chuyện thế hiện diễn cảm và ngũ điệu giọng chưa phù hợp hay còn nói ngọng, nói tiếng địa phương + Khi chưa thực hiện Khả năng Sĩ số Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ % đạt yêu chưa đạt cầu yêu cầu Phát âm rõ ràng, 32 17 53 % 15 47 % đúng ngữ pháp Hứng thú kể chuyện, 32 16 50 % 16 50 % đọc thơ Biết thể hiện ngữ 32 10 31 % 22 69 % điệu, hoàn cảnh khả năng diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Qua quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi nhận thấy rằng; trẻ mầm non chưa biết cầm sách và tự đọc chuyện. Để cảm nhận được câu chuyện, bài thơ trẻ phải nhờ vào người lớn. Vì vậy cô giáo là người trung gian là chiếc cầu nối để giúp trẻ. Do đó lời đọc thơ, kể câu chuyện là phương pháp quan trọng nhất khi cho trẻ đọc thơ hoặc kể chuyện. Lời đọc, kể càng hay càng hấp dẫn bao nhiêu thì giúp trẻ phát triển ngôn ngữ bấy nhiêu. Đó là thước đo để đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ. Nhưng trong quá trình dạy trẻ chúng ta chưa chú ý đến sở thích, nhu cầu hay khả năng cảm nhận của trẻ mà mới chú ý đến việc thực hiện đúng chương trình, áp đặt trẻ phải thế hiện máy móc theo sự suy nghĩ của giáo viên, trẻ thụ động ngồi nghe ít có cơ hội hoạt động. Trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay giáo viên phải lựa chọn các phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy để thu hút sự chú ý tập trung của trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao. Muốn vậy cô giáo phải; lấy trẻ làm trung tâm phát huy tính tích cực của trẻ, dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp. Ví dụ: Truyện “Quả bầu tiên” , qua câu chuyện giúp trẻ biết được “lão nhà giàu” tham lam, ác độc bị rắn rết cắn chết. “Cậu bé” hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng hay giúp đỡ mọi người nên được sống một cuộc sống vui vẻ, đầy đủ Qua những câu chuyện, bài thơ này đã giúp tôi xác định được một hệ thống câu hỏi cho phần đàm thoại. Xác định được giọng kể phù hợp với từng nhân vật và diễn biến câu chuyện. * Biện pháp 1: Sử dụng dụng cụ trực quan. Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng các phương tiện trực quan sinh động gần gũi để thu hút sự tập trung chú ý của trẻ như: con vật, nhà cửa, cây cối Khi kể chuyện, đọc thơ có tranh ảnh minh họa. Đọc, kể đến đâu sử dụng hình ảnh tương ứng với đoạn chuyện hoặc đoạn thơ đó. Dùng thước chỉ chính xác vào nhân vật, hoặc hình ảnh đang đọc, kể. Các hình ảnh phải phù hợp sát với nội dung của bài thơ, câu chuyện đó Kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe bằng màn hình Power Point, những hình ảnh sinh động ngộ nghĩnh phù hợp với nội dung và các tình tiết trong chuyện, bài thơ. Giọng kể , đọc phải diễn cảm, mỗi nhân vật có giọng nói khác nhau để gây hứng thú và lôi cuốn trẻ vào hoạt động làm quen văn học. * Biện pháp 2: Đọc và kể chuyện cho trẻ nghe. Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa thể tự đọc được bài thơ, câu chuyện. Muốn đưa được các tác phẩm văn học đến với trẻ thì phải qua yếu tố trung gian đó là lời kể, giọng đọc của cô giáo hoặc của ông bà, cha mẹ, anh chị. Phải phân biệt được giữa đọc và kể khác nhau. Ví dụ: Truyện "Chú Dê Đen" giọng nói của nhân vật "Dê Đen" to, hung dữ, ồm ồm còn nhân vật "Dê Trắng" giọng kể nhỏ hơn run sợ. Khi đọc chuyện cho trẻ nghe là đọc trọn vẹn nguyên văn tác phẩm. Còn kể chuyện là kể lại nội dung chính của câu chuyện. Trong khi kể tôi có thể thêm hoặc bớt đi các chi tiết mà không làm ảnh hưởng đến nội dung chuyện. còn đọc thơ là phải đọc đầy đủ từng câu, từng từ. Đàm thoại giúp cho trẻ biết so sánh, nhân cách hoá lên từng câu chuyện để phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ. *Biện pháp 4: Dạy trẻ kể lại chuyện. Là phương pháp thực hành tốt nhất để kiểm tra khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ. Phương pháp này không thể tách rời phương pháp kể chuyện diễn cảm, đàm thoại và trực quan, có tiến hành tốt các phương pháp trên thì mới tiến hành tốt phương pháp kể lại chuyện. Phần quan trọng của tiết học chính là việc trẻ tự kể lại chuyện. Để gây hứng thú cho trẻ, giáo viên cần có nhiều hình cho trẻ kể lại chuyện. ( trẻ kể chuyện diễn cảm, kể chuyện theo tranh, tập đóng kịch ) Trẻ được học kể chuyện, xây dựng các câu đúng ngữ pháp, truyền đạt lại một cách chặt chẽ và tuần tự nội dung, sử dụng từ, cách thể hiện của tác giả cũng như lời của chính mình để truyền đạt lại nội dung câu chuyện. Điều rất quan trọng là làm sao cho khi trẻ kể chuyện lời nói hình ảnh nghệ thuật của nhân vật trong chuyện thành lời của riêng trẻ, trẻ kể diễn cảm biết kết hợp cử chỉ điệu bộ. Nếu câu chuyện không dài, trẻ có thể kể lại một cách đầy đủ. Câu chuyện dài hơn cần chia thành các phần và cho trẻ kể theo các phần đó. Chỉ dùng câu hỏi để gởi ý, nhắc nhở . Câu hỏi phải cụ thể, không làm cho trẻ lãng quên nội dung câu chuyện. Thỉnh thoảng cô nhắc trẻ một vài hành động nhân vật, một vài từ ngữ trẻ bỏ qua hoặc quên (từ ngữ đó liên quan đến nội dung chính của câu chuyện). Cô lựa chọn cháu nào lên kể trước (cháu có lời nói phát triển hay ngược lại, có thể chọn cháu nhút nhát để rèn sự tự tin và ngôn ngữ cho trẻ) Sự lựa chọn phù thuộc vào mức độ khó khăn của câu chuyện, vào nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho tiết học và vào đặc điểm cá nhân của trẻ. Nếu câu chuyện có khối lượng không lớn, nội dung đơn giản, cô có thể yêu cầu các cháu yếu hơn. Câu chuyện dài có thể cho những trẻ nhanh nhẹn kể nối tiếp. Điều quan trọng là làm sao có thể gọi từng cháu. Đối với những trẻ ít tập trung chú ý cần động viên khuyến khích trẻ . Có thể dạy trẻ tập nhập vai đóng kịch cùng cô và các bạn khác ( cho trẻ vào vai nhân vật đơn giản nhất trong câu chuyện). Có như vậy mới phát triển ngôn ngữ cho trẻ mạch lạc hơn. Nếu tất cả biện pháp đều có sự kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì việc làm cho các cháu yêu thích môn làm quen văn học sẽ tự tìm đến các câu chuyện, bài thơ phù hợp của lứa tuổi mình. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Với việc áp dụng một số biện pháp trên vào giờ kể chuyện, đọc thơ cho trẻ tại lớp tôi thấy được kết quả như sau: Các cháu tỏ ra nhanh nhẹn và mạnh dạn, tự tin phát âm rõ ràng, mạch lạc, thể hiện đúng ngữ điệu, khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh, trẻ biết diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc phù hợp với hoàn cảnh của bài thơ, câu chuyện. Trẻ đã hứng thú vào giờ làm quen văn học hơn trước, khả năng tiếp thu các câu chuyện, bài thơ của trẻ cũng tăng lên rõ rệt, số trẻ đọc, kể lại được các bài thơ, câu chuyện nhiều hơn và khả ngăng diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng, mạch lạc hơn rõ rệt. * Kết quả sau khi thực hiện: Khả năng Sĩ Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ chưa Tỉ lệ % số đạt yêu % đạt đạt yêu cầu cầu Phát âm rõ ràng, đúng ngữ 32 27 84 % 5 16 % pháp Hứng thú kể chuyện, đọc 32 24 75 % 8 25 % thơ Biết thể hiện ngữ điệu, hoàn 32 25 78 % 7 22 % cảnh khả năng diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua kết quả trên, tôi nhận thấy những biện pháp nghiên cứu của mình về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua môn làm quen văn học là rất lúc, mọi nơi; tham dự các chuyên đề, các tiết dạy mẫu để rút kinh nghiệm; đầu tư làm đồ dùng, đồ chơi và thay đổi nhiều phương pháp mới trong khi tổ chức hoạt động làm quen văn học để thu hút trẻ. Ngoài ra giáo viên cần sử dụng dụng cụ trực quan đa dạng và sinh động; tìm các thủ thuật đàm thoại để phát huy hết khả năng hiểu biết của trẻ; thường xuyên cho trẻ ôn luyện, tập đọc, kể mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt cô phải kiên trì dạy trẻ theo quy trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp giúp trẻ nắm bắt. Cô khen ngợi, động viên trẻ kịp thời để trẻ cảm thấy tự tin và vui sướng tham gia vào tiết học. Giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức văn học đến với các bậc phụ huynh để cùng phối hợp chăm sóc giáo dục trẻ; đánh giá hàng ngày và rút ra những ưu khuyết điểm sau mỗi tiết học để bổ sung thêm vào các tiết học sau. 2. Kiến nghị * Với nhà trường Nhà trường tham mưu với các cấp lãnh đạo để xây dựng nâng cấp tu sửa trường lớp Xây dựng kế hoạch mua sắm, bổ sung thêm trang thiết bị, đồ dùng phục vụ hoạt động dạy và học. * Với giáo viên Giáo viên phải nỗ lực hết mình và dành nhiều thời gian nghiên cứu và đầu tư vào việc giảng dạy, xây dựng kế hoạch cụ thể, đi sâu nội dung bài dạy. Tự bản thân của mỗi giáo viên phải không ngừng học tập để nâng cao kiến thức và cập nhật thông tin. Chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc làm đồ dùng phục vụ công tác dạy học. Trên đây là một số kinh nghiệm mà trong thời gian qua tôi đã thực hiện. Tuy chưa phải hoàn thiện vẫn còn nhiều thiếu sót cần bổ sung nhưng đây cũng là kết quả mà bản thân tôi đã tìm tòi học hỏi và vận dụng để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ,

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_5_6_tuoi_pha.doc