Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân có hiệu quả
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi có các kỹ năng tự phục vụ bản thân có hiệu quả
ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ 3 - 4 TUỔI” 1.Phần mở đầu: 1.1.Lý do chọn đề tài: Giáo dục mầm non là ngành giáo dục hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Đến trường trẻ được học, được chơi, được tiếp xúc với nhiều bạn, được sống trong tình thương của cô giáo, được khám phá thế giới bí ẩn xung quanh, biết cách sống tự lập cao. Nhờ quá trình giáo dục giúp trẻ phát triển toàn diện về nhân cách: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẫm mĩ, tâm lí, tình cảm . Tâm hồn trẻ thơ như tờ giấy trắng, rất non nớt, rất trong sáng và rất dễ tiếp thu những cái tốt cũng như những cái xấu từ bên ngoài. Nếu như chúng ta không biết cách uốn nắn và dạy dỗ trẻ đúng cách thì sẽ gây khó khăn cho các bậc học sau. Chính vì vậy mà người lớn chúng ta cần phải rèn luyện những thói quen tốt cho trẻ ngay từ nhỏ. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con. Và cũng không ít trẻ mầm non vì quá được cưng chiều, cha mẹ làm thay hết mọi việc nên trẻ có thói quen ỷ lại và chỉ biết trông chờ người khác phục vụ. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến trẻ lười biếng, thụ động và sẽ gặp khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng là vô cùng cần thiết đối với trẻ mầm non. Như ông bà xưa thường nói “ dạy trẻ từ thưở lên ba” Nếu các con không có kĩ năng tự phục vụ bản thân, các con sẽ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống hiện đại. Nếu trẻ biết tự phục vụ bản thân , trẻ sẽ thấy quý trọng bản thân, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần, từ đó sẽ xây dựng những kỹ năng sống hòa nhập với môi trường xung quanh. Ở mỗi lứa tuổi, trẻ rất cần những tác động khác nhau đên kỹ năng sống của trẻ. Chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện, là nền tảng cho quá trình học tập suốt đời của trẻ. Chính vì vậy, tôi luôn quan tâm đến những biện pháp dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ của trẻ, đặc biệt là ở lứa tuổi tôi đang giảng dạy 3 - 4 tuổi.Theo nghiên cứu thì trẻ ở lứa tuổi này não bộ vẫn rất dễ dàng tiếp thu và thay đổi, đặc biệt là trong những tình huống kích thích cảm xúc của bé và sau khi trẻ chơi những trò chơi đòi hỏi sự hoạt động cơ thể. Vì thế những kinh nghiệm tích cực mà trẻ thu được trong thời kỳ này rất quan trọng đối với sự phát triển kỹ năng lâu dài và toàn diện của trẻ. Nó giúp trẻ hình thành những thói quen tốt ngay từ nhỏ, trẻ có sự chủ động trong cuộc sống sau này. Là giáo viên mầm non, làm thế nào để giáo dục kĩ năng tự phục vụ cho trẻ 3 - 4 tuổi đạt hiệu quả tốt nhất là vấn đề khiến bản thân tôi hết sức băn khăn trăn trở. Qua việc tìm tòi, nhận thức sâu sắc ý nghĩa vai trò quan trọng của các kỹ năng tự phục vụ đối với sự phát triển của trẻ. Bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn và 1 - Bản thân tôi cũng cố gắng trong quá trình tự học, tự làm đồ dùng đồ chơi cho các góc. -Tôi luôn chú ý, tìm tòi, tích lũy thêm kiến thức để tận dụng những phế liệu làm ra các đồ dùng đồ chơi mới thu hút trẻ đồng thời tôi cũng học hỏi các đồng nghiệp qua các buổi dự giờ hoạt động và tìm hiểu qua các loại sách báo để có kế hoạch sắp xếp hoạt động góc theo từng chủ đề với sự hứng thú của trẻ - Các giáo viên trong lớp đều có kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ.Các cô đều nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có năng lực chuyên môn . 2.1.2. Khó khăn. - Khả năng nhận thức của trẻ là không đồng đều. Có một số trẻ còn chưa biết nói, hoặc nói chưa thạo nên gây khó khăn cho trẻ trong việc thể hiện ý muốn của mình cho cô giáo. Nhiều trẻ khả năng tự phục vụ còn yếu, còn rụt rè nhút nhát nên buộc cô giáo phải hết sức gần gũi và nhẹ nhàng mới có thể tiếp cận và hiểu được trẻ. Bên cạnh đó có những trẻ nghe nhưng không hiểu được các yêu cầu của cô, thích tự làm theo ý mình nên việc rèn luyện kĩ năng cho trẻ gặp nhiều khó khăn. - Nhiều phụ huynh còn chưa hiểu, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ. - Lớp có 32 trẻ là quá đông, trong khi đó có nhiều trẻ mới bắt đầu đi học nên chưa có nề nếp. - Trẻ còn bị ảnh hưởng do cuộc sống hiện đại như: intrenet, tivi, các trò chơi điện tử.....nên trẻ không có hứng thú với các kỹ năng tự phục vụ. - Trẻ đa số được bố mẹ nuông chiều, sống trong bao bọc nên có tính ỷ lại, ích kỷ. 2.1.3. Khảo sát thực trạng. Đầu năm tôi đã khảo sát thực tế và khả năng trẻ tự phục như sau: Đạt Chưa đạt TT Nội dung khảo sát Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % 1 Xếp hàng đúng cách 15 46,8 17 53,1 2 Tự lấy và cất ghế 20 62,5 12 37,5 3 Tự xúc cơm ăn 20 62,5 12 37,5 4 Tự lấy cốc và uống nước đúng cách 22 68,7 10 31,2 5 Tự rửa tay 17 53,1 15 46,8 6 Tự xúc miệng sau khi ăn cơm 20 62,5 12 37,5 7 Tự lấy tay che miệng khi ho 17 53,1 15 46,8 8 Tự biết cách lau mặt 15 46,8 17 53,1 9 Tự biết lau miệng đúng cách 17 53,1 15 46,8 10 Tự biết mặc, cởi áo 15 46,8 17 53,1 11 Tự biết cách dép và đi dép 22 68,7 10 31,2 12 Tự biết cài khuy áo 17 53,1 15 46,8 13 Tự biết lấy và cất gối 20 62,5 12 37,5 14 Tự cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy định 20 62,5 12 37,5 Khả năng trẻ tự làm được không cần cô 15 5 15,6 27 84,3 nhắc nhở 3 Cách sử dụng bát, 5 x thìa,cốc đúng cách Cách lấy nước và 6 x uống nước 7 Cách lấy và cất gối x 8 Cách rửa tay x Cách xúc miệng sau 9 x khi ăn 10 Cách sử lý khi ho x 11 Cách lau mặt x Cách mặc và cởi 12 x quần áo 13 Cài khuy áo x Ngoài việc thường xuyên nhắc nhở, dạy trẻ các kỹ năng. Tôi vạch ra kế hoạch đưa các kỹ năng vào các tháng để chú trọng hơn, để biết trong tháng này ngoài các kỹ năng trẻ đã biêt thì sẽ dậy trẻ kỹ năng gì mới. Hơn nữa làm như vậy trẻ sẽ nhớ hơn là dạy trẻ liền một lúc nhiều kỹ năng , sau rồi trẻ không nhớ gì. Đưa các kỹ năng theo tháng cô giáo cũng dễ định hướng là tháng này cần dạy trẻ kỹ năng gì mà không bị bỏ quên, hay sót các kỹ năng. 2.2.Biện pháp 2: Nắm vững kiến thức trọng tâm về kỹ năng sống: kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thông qua các hoạt động vệ sinh cá nhân hàng ngày. a. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ. - Thói quen vệ sinh cần rèn luyện. - Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp, giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau: - Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng. - Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạt nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch.. - Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ. - Biết gấp cất trải nệm, gối. - Biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp. - Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa. - Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh. - Các kỹ năng cần rèn cho trẻ. - Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân. - Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn. - Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi 5 Ví dụ: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (giỏ rác) thì lớp phải có giỏ rác cho các cháu bỏ, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh và hành vi văn minh cho trẻ. - Trang bị, bổ sung đủ các trang thiết bị vệ sinh cá nhân trẻ ở lớp. Ví dụ: Mỗi cháu 1 khăn mặt, 1 bàn chải răng, 1 cốc uống nước riêng có kí hiệu tên trẻ; Khăn thêu tên, bìa hồ sơ để lưu bài học theo chủ đề, đồ dùng học tập của cá nhân trẻ đều ghi tên kí hiệu riêng từng cháu. - Giữ sạch sẽ nhà vệ sinh của trẻ: Nhà vệ sinh nếu không được giữ vệ sinh sạch sẽ là nơi dễ mang mầm bệnh, vì thế nhà vệ sinh dành cho trẻ cần được chú ý giữ gìn sạch sẽ, thông thoáng không để có mùi hôi. Thường xuyên chà rửa, lau chùi nhà vệ sinh bằng dung dịch nước vệ sinh, nước lau nhà vừa vệ sinh sạch sẽ vừa giúp phòng tránh được các mầm bệnh cho trẻ, giúp trẻ thoải mái khi sử dụng nhà vệ sinh. Ví dụ: Chà sạch sẽ nhà vệ sinh mỗi ngày, giữ sạch sẽ các dụng cụ vệ sinh. Ngoài ra, còn dán các hình ảnh thực hiện các thao tác và hành động thực hiện vệ sinh dán trên vách lớp, trong nhà vệ sinh ngay chỗ đặt bồn rửa tay của trẻ hoặc nơi trẻ tiểu tiện với mục đích thường xuyên nhắc nhở trẻ có thói quen vệ sinh đồng thời thực hiện tốt các thao tác vệ sinh và các hành vi văn minh. Tham mưu cùng nhà trường trang bị đầy đủ các dụng cụ vệ sinh cho trẻ: khăn lau tay, lau mặt, bàn chải đánh răng, ca múc nước, xà phòng chú ý sắp xếp ngăn nắp, vừa tầm tay trẻ giúp trẻ dễ lấy sử dụng. Ví dụ: Xà phòng để trong rổ nhỏ hoặc túi lưới treo cạnh bồn rửa tay; các loại khăn treo trên giá thấp ngang tầm với trẻ và thường xuyên giặt sạch, phơi khô dưới ánh nắng mặt trời; bàn chải đánh răng rửa sạch phơi nắng và cắm vào trong một giá để bàn chải b. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày * Giờ đón trẻ: tôi đón trẻ vào lớp nhắc trẻ phải chào ba, mẹ ; chào cô, tôi hướng dẫn trẻ xếp mũ nón bảo hiểm, cặp vào kệ, giúp trẻ chải lại đầu tóc, hướng dẫn trẻ xếp dép đúng chân ngay ngắn lên kệ dép. * Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay, lau mặt, mời cô, các bạn, cầm muỗng đúng tay. Ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoằm và nuốt vội. Không ngậm thức ăn lâu trong miệng – không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung. * Khi trẻ uống nước: dạy và nhắc trẻ uống nước từ từ, không làm đổ, không làm rơi cốc, không rót nước quá đầy, không thò tay vào thùng chứa nước thừa, không uống nước sống... * Hoạt động vệ sinh: rửa tay - rửa mặt: Rửa tay - rửa mặt: đúng cách, đúng kỹ năng vệ sinh tay - mặt cô hướng dẫn. * Dạy trẻ biết tự mặc quần áo: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo - thường xuyên tắm rửa thay quần áo. Ví dụ: Cho trẻ xem tranh ảnh các bạn nhỏ ăn mặc quần áo sạch sẽ khi đi 7 - Hay khi dạy kỹ năng rửa tay có rất nhiều kỹ năng khó và các bước. Trẻ rất khó nhớ. Thậm chí khi thực hiện trẻ sẽ sợ và làm không đứng yêu cầu kỹ năng cần đặt ra. Vì vậy, để cho trẻ nhớ tôi sẽ vừ cho trẻ đọc bài thơ “ Rửa tay” và trẻ thực hiện. Bài thơ: Rửa tay Bé làm ướt tay nào Bánh xà phòng nho nhỏ Em xát lên bàn tay Nước máy đầy trong vắt Em rửa đôi bàn tay Xoa lòng bàn tay nào Rồi đến kẽ ngón tay Đổi bên làm lại nào Tiếp đến xoay cổ tay Ôi bé thật là giỏi Đổi bên xoay tiếp nha Chụm đầu ngón tay lại Rửa cho sạch nhé bé Khăn mặt đây thơm phức Bé hãy lau khô tay Đôi bàn tay be bé Nay rửa sạch, xinh xinh Cùng giơ tay vỗ vỗ. - Và khi dậy kỹ năng lau mặt tôi cho trẻ đọc bài thơ “ Bé tập rửa mặt” Bài thơ: Bé tập rửa mặt Một tay chẳng làm được Bé phải lau hai tay Bắt đầu từ mắt này Lau từ trong ra nhé Nhích khăn lên các bé Lau sống mũi xuống đi Sau đó đến cái gì Cái miệng xinh của bé Cô cất giọng nhỏ nhẹ Làm thế nào nữa đây? Bé gấp đôi khăn ngay Lau hai bên má đỏ Gấp đôi một lần nữa Lau cái cổ cái cằm Mắt bé nhìn chăm chăm Kìa cô khen bé giỏi. - Tiếp khi dạy đến kỹ năng xử lý khi ho tôi cũng tự sáng tác bài thơ “Cô dạy bé” để cho trẻ dễ nhớ. 9
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_3_4_tuoi_co.doc