Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục mầm non (GDMN) là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Những kỹ năng mà trẻ được tiếp thu qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Usinsky từng nói: Từ là một đơn vị ngôn ngữ không thể thiếu trong tạo lập lời nói để giao tiếp của trẻ. “Tất cả mọi hiểu biết đều bắt đầu từ ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và trở lại với ngôn ngữ” và “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng mọi tri thức”. (Usinsky) Bởi vậy giáo dục ngôn ngữ cho trẻ là vô cùng cần thiết và phải bắt đầu ngay từ rất sớm từ tuổi mầm non (0 - 6 tuổi) đặc biệt là từ 2 - 5 tuổi, lứa tuổi này ngôn ngữ trẻ có điều kiện phát triển cực kỳ nhanh về tất cả các mặt: ngữ âm, từ vụng và ngữ pháp mà không giai đoạn nào có thể sánh bằng. Nếu nhà giáo dục bỏ qua giai đoạn phát cảm trong ngôn ngữ này sẽ là thiệt thòi lớn cho sự phát triển của đứa trẻ, trẻ sẽ khó theo kịp sự phát triển của các bạn cùng lứa tuổi. E. I. Tikhêêva cho rằng phát triển ngôn ngữ cho trẻ là khâu chủ yếu của hoạt động trong trường mẫu giáo, là tiền đề cho mọi sự thành công khác. 1 Xuất phát những lí do trên, đề tài “Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện” được nhóm lựa chọn nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng phát triển vốn từ của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong hoạt động kể chuyện; xác định các yếu tố ảnh hưởng, từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao vốn từ cho trẻ và tổ chức thực nghiệm. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng ảnh hưởng của hoạt động kể chuyện tới sự phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non thuộc Tp.HCM. 3.1. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp sử dụng hoạt động kể chuyện (HĐKC) phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi. 3.2. Khách thể nghiên cứu Quá trình giáo dục nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 4.1 Giới hạn về nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu để hệ thống các vấn đề lý luận làm cơ sở lý luận cho đề tài, thực trạng tổ chức một số biện pháp ảnh hưởng của hoạt động kể chuyện tới sự phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non thuộc Tp.HCM, từ đó đề xuất biện pháp nhằm phát triển vốn từ cho trẻ. 4.2 Giới hạn về địa bàn nghiên cứu - 30 trẻ MG 5 - 6 tuổi ở trường mầm non thuộc quận 1 (trung tâm). - 30 trẻ MG 5 - 6 tuổi ở trường mầm non thuộc quận Tân Bình (ven nội). - 30 trẻ MG 5 - 6 tuổi ở trường mầm non thuộc huyện Hóc Môn (ngoại thành). - 50 giáo viên mầm non (GVMN) đang trực tiếp chăm sóc - giáo dục trẻ MG 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại trung tâm, ven nội và ngoại thành 3 - Sử dụng phương tiện trực quan “Rối bóng”. - Diễn xuôi câu chuyện theo giai điệu bài hát quen thuộc. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận. Phân tích, tổng hợp các tài liệu liên quan đến đề tài, xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. 7.2.1. Phương pháp quan sát a. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 - 6 tuổi trong HĐKC và những biện pháp tổ chức HĐKC của GVMN nhằm phát triển vốn từ cho trẻ MG 5 - 6 tuổi. b. Đối tượng nghiên cứu Trẻ MG 5 - 6 tuổi và GVMN dạy trẻ lớp Lá (5 - 6 tuổi). c. Cách thực hiện Quan sát, ghi nhận các mẫu lời nói của trẻ MG 5 - 6 tuổi, cách thức tổ chức HĐKC của GVMN. 7.2.2. Phương pháp sử dụng bài tập a. Mục đích nghiên cứu Khảo sát thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 - 6 tuổi. b. Đối tượng nghiên cứu Trẻ MG 5 - 6 tuổi. c. Cách thực hiện Sử dụng các bài tập, quan sát trẻ thực hiện các bài tập ngôn ngữ, ghi nhận kết quả. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn a. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng vốn từ của trẻ MG 5 - 6 tuổi. b. Đối tượng nghiên cứu Trẻ MG 5 - 6 tuổi. 5 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lý luận về biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện. Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động kể chuyện nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. Chương 3: Biện pháp tổ chức hoạt động kể chuyện nhằm phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. 7 cuốn “Bàn về phương pháp”, Descartes đã chỉ ra những đặc tính chủ yếu của ngôn ngữ và lấy đó làm tiêu chí phân biệt con người, khác với động vật. Ông nhấn mạnh tính chất của ngôn ngữ, cái tín hiệu duy nhất ấy chắc chắn là của một tư duy tiềm tàng trong cơ thể và kết luận rằng: “Có thể lấy ngôn ngữ làm chỗ khác nhau thực sự giữa con người và con vật” [20]. Chỉ đến giữa thế kỷ 19 khuynh hướng tâm lý học mới nảy sinh trong ngôn ngữ học. Ngưởi đầu tiên sáng lập ra trường phái ngôn ngữ học tâm lý Shteintal (1823 - 1899). Ông đã đưa ra học thuyết ngôn ngữ là sự hoạt động của cá nhân và sự phản ánh tâm lý dân tộc. Theo ông, ngôn ngữ học phải dựa vào tâm lý cá nhân trong khi nghiên c ứu ngôn ngữ cá nhân, phải dựa vào tâm lý dân tộc trong khi nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc [20]. Thuyết tâm lý liên tưởng - đại biểu là V.Vunt (1832 - 1920) - nghiên cứu lý thuyết về dạng thức bên trong của từ, về các loại ý nghĩa chuyển đổi của từ, về nghĩa hiện có của từ và câu, về mối quan hệ liên tưởng có tính ngữ đoạn. Sau cách mạng tháng Mười Nga 1917, các nhà ngôn ngữ học, tâm lý học Xô Viết đã vận dụng quan điểm của Mác - Lênin vào hoạt động nghiên cứu ngôn ngữ đó là: xem xét ngôn ngữ với tư cách là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ thể hiện các mối quan hệ giữa con người với con người được quy định bởi những điều kiện cụ thể của thời ký lịch sử nhất định. Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy và là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Với quan điểm này có thể kể đến: L.X. Vưgôtxki; R.O. Shor; E.D. Polivanov; K.N. Derzhavin; B.A. Larin; M.V. Sergievskij; M.N. Peterson; L.J. JaKubinskij; A .M. Selishchev Họ đã đi vào nghiên cứu tính chất xã hội của ngôn ngữ, về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, sự phụ thuộc qua lại giữa các thuộc tính của ngôn ngữ. L.X. Vưgotxki trong cuốn: “Tư duy và ngôn ngữ” đã lập luận rằng hoạt động tinh thần của con người chính là kết quả học tập mang tính xã hội chứ không phải là một học tập chỉ là cá thể. Theo ông, khi trẻ em gặp phải những khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào hợp tác 9 này đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non [10]. 1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trong nước Vốn từ, khả năng hiểu từ, ngữ pháp của trẻ ở các độ tuổi khác nhau có các công trình nghiên c ứu của Dương Diệu Hoa (1985), Nguyễn Minh Huệ (1989), Hồ Minh Tâm (1989) v.v Chẳng hạn Lưu Thị Lan (1996) trong công trình nghiên cứu Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em 1 - 6 tuổi [19] đã chỉ rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn tiền ngôn ngữ (0 - 1 tuổi) giai đoạn ngôn ngữ (1 - 6 tuổi), về mặt ngữ âm có những bước tiến dài đặc biệt là giai đoạn 4 - 6 tuổi. Các bước phát triển về từ vựng được tác giả thống kê từng lứa tuổi với số lượng từ tối thiểu và số lượng từ tối đa. Từ 18 tháng tuổi trở đi trẻ có sự nhảy vọt về số lượng từ và yếu tố văn hóa, xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển vốn từ của trẻ. Các bước phát triển về ngữ pháp trong ngôn ngữ của trẻ em Việt Nam được tác giả nghiên cứu rất cụ thể từng lứa tuổi với loại câu đơn, câu phức, các loại câu phức như câu phức chính phụ, câu phức đẳng lập. Câu phức chính phụ xuất hiện muộn và có số lượng ít hơn. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo đã đưa ra một số biện pháp hướng dẫn trẻ kể chuyện nhằm phát triển lời nói độc thoại cho trẻ gồm: kể lại chuyện, kể chuyện theo tri giác, kể chuyện theo trí nhớ và kể chuyện theo tưởng tượng. Tác giả Lưu Thị Lan đề cập đến biện pháp phát triển ngôn ngữ đối với trẻ 4 - 6 tuổi, theo tác giả để phát triển vốn từ cần tổ chức cho trẻ quan sát sự vật hiện tượng và đàm thoại, cùng với trẻ phân tích sự vật hiện tượng để giúp trẻ nhận thức mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. Cho trẻ nghe thơ, truyện, chơi một số trò chơi như đoán vật qua tiếng kêu, kể tên các con vật em biết, trò chơi nối từ, nói từ tiếp theo, chơi đóng vai theo chủ đề, kể chuyện theo tranh [17]. Tác giả cũng đã nêu các biện pháp sửa ngọng cho trẻ rất đơn giản chỉ cần luyện tập một số buổi là trẻ có thể nhận thức được cách phát âm đúng, 11 cứu ngôn ngữ của lứa tuổi 5 - 6 tuổi. Trong các công trình nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ 5 - 6 tuổi chủ yếu đi sâu nghiên cứu vào một mặt của sự phát triẻn ngôn ngữ như hiểu từ hoặc ngôn ngữ mạch lạc. Trong ngôn ngữ mạch lạc thì lại chủ yếu đi vào nghiên cứu biện pháp hình thành và phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi là một điều kiện hết sức quan trọng để trẻ tiếp xúc với một trường mới lạ ở phổ thông, giúp trẻ lĩnh hội được những kiến thức mang tính chất khoa học của các môn ở phổ thông.Vì vậy việc nghiên cứu về vốn từ lứa tuổi 5 - 6 tuổi là rất cần thiết. Thông qua đó, chúng ta có thể giúp trẻ có sự phát triển vốn từ một cách đầy đủ, đó cũng là phương tiện cơ bản nhất, quan trọng nhất để trẻ tiếp thu tri thức không chỉ môn Tiếng Việt mà còn là tất cả các môn học khác của chương trình lớp 1. 1.2. Các khái niệm cơ bản 1.2.1. Khái niệm “Biện pháp’” Theo từ điển Hoàng Phê thì “biện pháp”” được hiểu là: Cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể [26]. Theo đại từ điển tiếng việt của Nguyễn Như Ý thì: Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể: biện pháp đúng đắn, chưa tìm được biện pháp thích hợp, dùng biện pháp tiến bộ hơn. [37] Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi đồng quan điểm với Từ điển Hoàng Phê. Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể. 1.2.2. Khái niệm “Phát triển vốn từ” 1.2.2.1. Khái niệm “Vốn từ” Vốn từ là tập hợp các từ trong một ngôn ngữ mà người đó biết tới vốn từ thường xuyên tăng theo thời gian, và là công cụ cơ bản và hữu dụng trong giao tiếp và thu nhận kiến thức. Vốn từ tích cực và vốn từ thụ động: - Vốn từ tích cực: là những từ ngữ trẻ hiểu và sử dụng được trong giao tiếp một cách chủ động linh hoạt, tích cực. - Vốn từ thụ động: là những từ trẻ mới lĩnh hội trẻ chưa sử dụng chúng 13 Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi đồng quan điểm với cả hai cách định nghĩa trên. Như vậy: Hoạt động là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể mà kết quả là khách thể được cải tạo còn chủ thể thì được hoàn thiện. Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con người (chủ thể). Hay nói cách khác tâm lý của con người nói chung và của trẻ nói riêng được hình thành trong hoạt động và ngay chính trong hoạt động của mình. 1.2.3.2. Khái niệm “Kể chuyện” Kể chuyện là kể lại một chuỗi sự việc có đầu có cuối, liên quan đến một hay một số nhân vật. Mỗi câu chuyện cần nói lên được một điều có ý nghĩa. 1.2.3.3. Khái niệm “Hoạt động kể chuyện ” Kể chuyện là sự truyền đạt các sự kiện bằng lời nói, hình ảnh và âm thanh, thường là do ngẫu hứng. Nó được xem như một phương tiện giải trí, giáo dục, bảo tồn văn hóa và có giá trị đạo đức. Yếu tố quan trọng của câu chuyện và kể chuyện bao gồm ý tưởng, ngôn ngữvà cách thuyết phục người nghe [26]. Kể chuyện là hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Kể chuyện khởi đầu cho sự tích luỹ tri thức khoa học, kinh nghiệm sống. Ngôn ngữ ngày càng phát triển, số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần trở nên phong phú thì kể chuyện không dừng lại ở mức độ thông tin mà còn mang trong mình chức năng giải trí hay cao hơn là chức năng nghệ thuật [29]. Quá trình kể chuyện diễn ra với sự đóng góp của các nhu cầu được thể hiện, bày tỏ nguyện vọng cũng như các thao tác tư duy, ngôn ngữ để tạo ra một câu chuyện có nội dung, kết cấu hoàn chỉnh, mạch lạc. Trẻ là người chủ động trong câu chuyện của mình. Sự chủ động thể hiện rõ rệt từ việc lựa chọn nội dung, ý tưởng, ngôn ngữ, nhân vật, sự kiện .và sắp xếp chúng thế nào cho hợp lý. Thông qua câu chuyện kể, tâm tư, tình cảm và sự trải nghiệm của bản thân về những yếu tố được bộc lộ. 15
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre_ma.docx