Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non

doc 14 trang skkn 16/10/2024 690
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non

Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non
 Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Đề tài: Tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ mầm non.
 Độ tuổi: 5 tuổi.
 Đơn vị: Trường mầm non Đồng Phong –
 Nho Quan-Ninh Bình.
1. Lý do chọn đề tài
 Trẻ em hôm nay – Thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia 
đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha anh, gánh vác mọi 
công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc – xã hội chủ nghĩa. Mọi trẻ em sinh ra đều có 
quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Khi xã hội ngày càng phát triển 
thì giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Vì 
một tương lai tươi sáng, trẻ em sẽ trở thành chủ nhân hữu ích của tương lai, thì ngay từ 
tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng nền giáo dục phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi 
mặt: Đức, trí lao, thể, mỹ.
 Trong các mặt giáo dục trên thì giáo dục thể chất cho trẻ phải là nhiệm vụ hàng 
đầu, quan trọng nhất, vì sức khoẻ là vốn quý giá nhât và có ý nghĩa sống còn với con 
người, đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo. ở lứa tuổi này, cơ thể trẻ đang trong giai đoạn phát 
triển mạnh mẽ và hoàn thiện dần. Vì thế cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc 
và mất cân đối. Do vậy trẻ chỉ có thể phát triển tốt nếu như được chăm sóc một cách 
hợp lý.
 Giáo dục thể chất cho trẻ ở trường mầm non có thể thông qua nhiều biện pháp, 
như: Tổ chức cho trẻ vận động phù hợp, nghỉ ngơi hợp lý, ăn uống đầy đủNhư vậy, 
một trong những biện pháp phát triển thể chất là tổ chức bữa ăn cho trẻ. Cơ thể trẻ đang 
trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện, do đó, nó cần năng lượng để xây dựng. Năng 
lượng đó lại do thức ăn cung cấp, vì thế thức ăn chỉ phát huy hết vai trò của mình đối 
với cơ thể khi phù hợp với thể trạng và lứa tuổi.
 ở trường mầm non trẻ thường được ăn hai bữa là bữa trưa và bữa xế. Trong đó 
bữa ăn trưa là bữa chính và qua trong nhất. Thông qua bữa ăn trưa, trẻ được bù đắp 
những năng lượng đã tiêu hao và cung cấp năng lượng để tham gia và các hoạt động 
mới. Vì vậy việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ ở trường mầm non là một trong những 
nhiệm vụ quan trọng trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
 1 Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
 Như vậy, vấn đề ăn uống đối với trẻ mầm non đã được quan tâm từ rất sớm. Tuy 
nhiên, các tác giả mới chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của sự ăn uống đến sức khoẻ và 
bệnh tật của trẻ. Đồng thời các tác giả cũng cho rằng: để có cơ thể phát triển tốt, tránh 
được bệnh tật thì cần phải đảm bảo một chế độ ăn uống khoa học, hợp lý và vệ sinh. 
Nhưng chưa có một tác giả nào đề cập đến hiệu quả tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ.
 Mãi cho đến năm 1967, trong cuốn “Cán bộ giữ vườn trẻ và nhóm trẻ nhỏ của 
vườn trẻ mẫu giáo” của tác giả M.Đ.Côvryghina mới đưa ra một số vấn đề cần lưu ý khi 
tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non như: cho trẻ ăn tuỳ thích thú, không được bắt 
buộc trẻ ăn như thế dạ dày mới tiết dịch mạnh; giữa các bữa ăn không bao giờ cho ăn 
bánh kẹo ngọt; cho trẻ ăn không đúng lúc sẽ làm giảm khẩu vị, làm ức chế trung tâm 
điều khiển ăn uống và làm phá hoại chế độ ăn uống đúng đắn. Ngoài ra, thức ăn có hình 
thức đẹp, mùi vị hấp dẫn thì sẽ gây cảm giác thèm ăn cuả trẻ. Mọi khẩu phần giành cho 
trẻ em thì phải cho ăn cùng một lúc để trẻ quen ăn hết khẩu phần.
 3. Cơ sở thực tế:
ở nước ta, qua việc nghiên cứu vấn đề tổ chức bữa ăn cho trẻ ở trường mầm non mới 
được quan tâm mấy năm gần đây trong công trình nghiên cứu: “ Khảo sát khẩu phần ăn 
trưa và bữa phụ” của tác giả Lê Thị Khánh Hoà ( 1983 ) có đưa ra khảo sát khẩu phần 
ăn trưa năng lượng của trẻ ở trường mầm non. Kết qủa nghiên cứu cho thấy tình hình 
cung cấp năng lượng cho trẻ ở trường mầm non còn thấp so với tiêu chuẩn; tỉ lệ các 
chất sinh năng lượng chưa cân đối, chưa hợp l ý, trong đó lượng Gluxit quá cao, còn 
lượng Lipit thì quá thấp. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra một nguyên nhân dẫn đến tình 
hình trên như: bếp ăn mới được hình thành, cơ sở vật chất thiếu thốn, có nhiều quan 
niệm coi nhẹ việc nuôi nên các hình thức tổ chức còn nghèo nàn.Từ đó tác giả đưa ra 
các giải pháp: Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho các trường mầm non để đảm bảo cho 
việc tổ chức ăn cho trẻ; đào tạo đội ngũ cô nuôi có trình độ hiểu biết về dinh dưỡng cho 
trẻ.
 Khi công trình nghiên cứu: “ Điều tra tình trạng dinh dưỡng của trẻ mẫu giáo ở 
một số trường phía Bắc” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm ( 1989) và “tình hình 
cung cấp dưỡng chất cơ bản cho trẻ ở một số trường mẫu giáo” của tác giả Võ Thị Cúc 
( 1992) cũng cho thấy việc cung cấp dưỡng chất cơ bản ( Gluxit, Lipit) cho trẻ mẫu giáo 
ở các trường mầm non của ta hiện nay còn thấp. Chúng ta mới chỉ cung cấp được 
khoảng 70% nhu cầu cần thiết tối thiểu năng lượng cho trẻ mẫu giáo và năng lượng đó 
 3 Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
 Răng có thể xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn phụ thuộc vào sự phát triển cá 
nhân, phụ thuộc vào di truyền và chịu ảnh hưởng của các tác động với cơ thể trong thời 
kỳ phát triển của thai và sau khi sinh. Và đặc biệt là chật lượng dinh dưỡng cũng đóng 
vai trò vô cùng quan trọng với việc xuât hiện và phát triển của răng.
 * Lưỡi: là cơ quan hình trái xoan, được cấu tạo bằng cơ rất linh động, bao bên 
ngoài lưỡi là lớp màng nhầy trong đó có màu và dây thần kinh. Lưới có vai trò chuyển 
thức ăn trong khi nhai, thu nhận cảm giác và vị giác nhờ cac vị thể vị giác trên mặt lưỡi.
 * Hầu – thực quản: hầu và thực quản có nhiệm vụ dồn thức ăn từ miệng xuống 
dạ dầy. Thực quản đi vào khoang bụng qua một lỗ đặc biệt ở cơ hoành. ở trẻ sơ sinh, 
thực quản có hình chóp nón. Thành thực quản còn mỏng, tổ chức đàn hồi và lớp cơ 
chưa phát triển đầy đủ nên trẻ dễ bị nghẹn.
 * Dạ dầy: là phần rộng nhất của ống tiêu hoá. Đó là nơi chứa thức ăn và đồng 
thời là nơi thức ăn biến đổi về lý và hoá học nhờ các cơ và tuyến của dạ dầy. Dạ dầy 
được cấu tạo bởi ba lớp cơ chắc. Trong niêm mạc của dạ dầy có những tuyến nhờn tiết 
dịch vị và axit HCl nên dịch trong dạ dầy có tính axit cao. Trong dịch có các Enzym 
tiêu hoá thức ăn.
 * Ruột: ruột non dai 5- 6 m. Niêm mạc của ruột non có nhiều nếp gấp và có 
nhiều lông ruột. Mỗi lông ruột có chứa hệ thống mạch máu và mạch bạch huyết. Thành 
của ống ruột rất mỏng tạo điều kiện cho sự hấp thụ thức ăn. Trong niêm mạc củ ruột 
non cũng có nhiều tuyến nhỏ tiết ra dịch ruột chứa enzym tiêu hoá. 
 Ruột già dài 1,3 – 1,5m trong đó chứa hệ thống vi khuẩn phong phú ( chủ yếu là 
vi khuẩn hoại sinh), có tác dụng phân huỷ các chất bã của thức ăn để tạo thành phân. 
Đoạn cuối cùng của ruột già gọi là ruột thẳng. Và tận cùng là hậu môn, nơi thải phân ra 
ngoài.
 Ngoài ra, tham gia vào chức năng tiêu hoá còn có các tuyến tiêu hoá.
 * Tuyến nước bọt nằm chung quanh khoang miệng. Nó là những ống hình chữ n, 
tiết ra nước bọt theo ống dẫn đổ vào khoang miệng. Thành phần của tuyến nước bọt có 
cac enzym. Số lượng và thành phần dịch tiết ra phụ thuộc vào tính chất lý và hoá học 
của thức ăn. Nước bọt có tác dụng làm nhão thức ăn khô và cuốn khỏi niêm mạc miệng 
những chất có hại không cần thiết. Các tuyến nước bọt tiết ra theo phản xạ: thức ăn vào 
miệng kích thích các thụ thể của các dây thần kinh vị giác, các xung động đó được lan 
 5 Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
 Sự tiêu hoá được diễn ra chut yếu ở ruột non. Đây là giai đoạn quan trọng nhất 
và cần thiết nhất trong một quá trình tiêu hoá và tại đây thức ăn được biến đổi đầy đủ 
nhất và triệt để nhất.
 Thức ăn xuống đến ruột non, nhờ quá trình co bóp của các cơ ở thành ruột non 
mà thức ăn được tiếp tục nhào trộn và ngấm dần các dịch tiêu hoá ( dịch tiêu hoá đến 
ruột và mật). Đồng thời nhờ sự co bóp của các cơ quan này mà thức ăn được đẩy dần 
xuống ruột già, thời gian thức ăn được lưu giữ ở ruột non khoảng 3 – 5 giờ.
 Tuyến dịch tuỵ và dịch ruột có chứa đủ các men tiêu hoá prôtêin, Gluxit, lipit.
 Gluxit -> Mantoza -> Glucôza.
 Prôtit -> axitamin.
 Lipit - > Glyxêrin + axitbéo.
 Dịch ruột không tiết ra trong thức ăn mà nó chỉ được tiết ra ở những phần ruột 
đang tiếp xúc với hồ nhão của thức ăn. Trong dịch ruột có đủ ba loại men để tiêu hoá: 
prôtit, lipit và gluxit. Các men tiêp tục biến đổi nốt phần thức ăn còn lại đến các sản 
phẩm là các aminôaxit, glucôza, glyxêrin và axít béo.
 Dịch mật không chứa men tiêu hoá, nhưng có tác dụng làm tăng sự hoạt động 
của các men trong dịch tuỵ, dịch ruột và đặc biệt là đối với sự tiêu hoá mỡ. Dịch mật có 
tác dụng phân chia lipit thành những hạt nhỏ và tăng diện tích tiếp xúc với lipit của men 
lypaza. Ngoài ra, axit béo được tạo thành trong quá trình chuyển hoá lipit lại cùng với 
mật làm thành một chất hoà tan trong nước và dễ dàng ngấm qua thành ruột và máu.
 Mặt khác, Sự hấp thụ thức ăn là quá trình vận chuyển các sản phẩm tiêu hoá ( 
aminôaxit, glucôza, glyxerin, chất béo) vào máu.
 Sự tiêu hoá thức ăn diễn ra suốt dọc chiều dài của ống tiêu hoá nhưng chủ yếu 
diễn ra ở ruột non vì: ở ruột non có lớp niêm mạc phát triển, có nhiều nếp nhăn có lông 
ruột làm cho diện tích hấp thụ tăng lên đáng kể. Ngoài ra các tế bào ở ruột non có cấu 
trúc thuận lợi cho sự vận chuyển các chất trong ống tiêu hoá vào máu. Đến ruột non 
toàn bộ thức ăn đã biến đổi đến mức đơn giản nhất để có thể hấp thụ được,
 Sự hấp thụ thức ăn diễn ra theo hai cơ chế chủ động và thụ động:
 Cơ chế thụ động: nồng độ của các chất dinh dưỡng trong ống tiêu hoá cao hơn 
trong máu, các chất dinh dưỡng này sẽ được gắn vào các chất vận chuyển . Nhờ các 
chất vận chuyển mà các chất dinh dưỡng được vận chuyển vào máu. Dung dịch dinh 
dưỡng ( aminôaxit, gluxêrin, axit béo) được thấm vào máu và thấm vào dịch huyết của 
 7 Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội
động của hệ tiêu hoá còn rất yếu ớt. đối với trẻ sơ sinh, động tác mút là biện pháp duy 
nhất để trẻ lấy thức ăn.
 ở trẻ nhỏ niêm mạc ruột chưa bền chắc nên dẽ bị viêm ruột. Màng treo ở ruột ở 
trẻ em thường dài nên dễ bị lồng ruột hay xoắn ruột. Cơ thực quản và cơ dạ dầy củ trẻ 
mỏng, yếu nên trẻ dễ bị nghẹn hoặc bị nôn trớ nhất là sau khi trẻ ăn nhiều. 
 Niêm mạc ruột non chưa bền chắc nên trẻ dễ hấp thụ những sản phẩm thức ăn 
của quá trình tiêu hoá và vi khuẩn dễ xâm nhập gây ra rối loạn tiêu hoá, viêm ruột.
 Hoạt động của cơ quan tiêu hoá phụ thuộc vào sự muốn ăn của cơ thể. Quá trình 
muốn ăn có liên quan đến sự hưng phấn của các trung khu thần kinh điều khiển sự ăn 
uống của não bộ, từ đó liên quan đến sự tăng cường các phản xạ ăn uống. Vì vậy, nếu ta 
không muốn ăn thì dịch tiêu hoá sẽ tiết ra ít, thức ăn được tiêu hoá sẽ chậm hơn và ít 
hiệu quả hơn.
 Có nhiều biện pháp tạo ra sự muốn ăn của cơ thể và một trong những biện pháp 
đó là thành lập ở trẻ những phản xạ ăn uống có điều kiện. 
 Muốn tạo ra cảm giác muốn ăn của cơ thể thì cần phải hình thành ở trẻ những 
phản xạ ăn uống có điều kiện và đặc biệt cần hình thành phản xạ có điều kiện ăn uống 
về thời gian. Khi phản xạ này được thành lập một cách bền vững thì chỉ đến các giờ ăn 
quen thuộc các cơ quan tiêu hoá bắt đầu tiết dịch trước khi ăn. Khi đó ta có cảm giác 
muốn ăn và khi được ăn sẽ ăn ngon miệng, đồng thời thức ăn sẽ được tiêu hoá nhanh. 
Cảm giác muốn ăn của trẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: phòng ăn sạch sẽ, 
thoáng mát, việc bày trí đồ đạc trong phòng ăn là những nhân tố quan trọng tạo ra cảm 
giác muốn ăn của cơ thể. Khi vào một phòng ăn thoáng mát, sạch sẽ, được ngồi ăn trên 
bàn ghế sạch sẽ người ta sẽ có cảm giác muốn ăn, ngoài ra dụng cụ ăn uống như: bát, 
đũa, thìasạch sẽ vệ sinh cũng giúp ta ăn ngon miệng.
 Ngoài ra cách chế biến món ăn, mùi thơm của thức ăn sẽ kích thích dịch tiêu 
hoá, khi ta đói mà ngửi thấy mùi thơm của thức ăn thì ngay lúc đó cơ quan tiêu hoá sẽ 
tiết ra dịch. Hoặc thức ăn được bày biện lịch sự, gọn gàngsẽ tạo cảm giác muốn ăn 
của cơ thể.
 Trong bầu không khí trước và trong khi ăn có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác 
muốn ăn của cơ thể. Người ta chỉ muốn ăn và ngon miệng khi mà con người cảm thấy 
thoải mái, không bị ức chế bởi một lý do nào đó vì vậy trong khi ăn cần tạo bầu không 
 9 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_bua_an_trua_cho_tre_mam_non.doc