Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi

doc 16 trang skkn 08/01/2024 2850
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập-Tự do-Hạnh phúc BÁO CÁO ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN Năm: 2022 I/ Sơ yếu lí lịch bản thân chức năng nhiệm vụ được giao: 1. Sơ yếu lý lịch: Tôi tên: Sinh năm: Quê quán: 2. Chức năng, nhiệm vụ: - Bảo vệ an toàn sức khoẻ, tính mạng của trẻ em trong thời gian trẻ em ở nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. - Thực hiện công tác nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em theo chương trình giáo dục mầm non: Lập kế hoạch chăm sóc, giáo dục; Xây dựng môi trường giáo dục, tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Đánh giá và quản lý trẻ em; Chịu trách nhiệm về chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em; Tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn, của nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập. - Trau dồi đạo đức, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; Gương mẫu, thương yêu trẻ em, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của trẻ em; Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em; Đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp. - Tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ em cho cha mẹ trẻ. Chủ động phối hợp với gia đình trẻ để thực hiện mục tiêu giáo dục trẻ em. - Rèn luyện sức khỏe; Học tập văn hoá; Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. - Thực hiện các nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và của ngành, các quy định của nhà trường, quyết định của Hiệu trưởng. 1 thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đó là GDKNS nhằm giúp trẻ biến nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ không chỉ hiểu biết mà còn phải làm được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểm rao giảng suông, dạy vẹt học vẹt không đạt được sự thay đổi hành vi này. Trong cách giáo dục mới, trẻ được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hòa giữa cái tôi và cái chúng ta và có những chọn lựa và quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ năng như: ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, lấy quyết định, ứng phó với cảm xúc và stress v.v các kỹ năng này có thể được dạy riêng, nhưng thường thì được lồng ghép trong giáo dục sức khoẻ nói chung và sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV, ma túy, bảo vệ môi trường, trật tự an toàn giao thông chống bạo lực, hướng nghiệp Phương pháp giáo dục là đặt trẻ trước những tình huống khó giải quyết (ví dụ như bị nhóm bạn rủ hút ma tuý, hay một bạn gái trước sức ép của bạn trai để quan hệ tình dục ) để trẻ giải quyết theo nhóm thông qua thảo luận, trò chơi, sắm vai, vẽ tranh hay hành động cụ thể. Qua đó, trẻ học bằng hành và tự quyết định với sự góp ý của nhóm bạn. Tác động của nhóm bạn rất mạnh mẽ theo hướng tích cực hay tiêu cực. Nếu sức ép của nhóm bạn xấu có thể khiến trẻ chấp nhận làm chuyện sai trái, thì giáo dục viên cũng có thể biến sức ép này thành tích cực để giúp cá nhân có những quyết định lành mạnh. Tuy nhiên, GDKNS không dễ chút nào, vì nó nằm ngoài cách suy nghĩ và thói quen của ta từ trước đến nay. Việc đầu tiên là tin vào khả năng của trẻ để suy nghĩ và có hành động đúng. Do đó, GDKNS chỉ thành công với nhà giáo dục "kiểu mới" khác với người thầy mệnh lệnh, bao cấp, suy nghĩ và hành động thay cho trẻ. Trẻ phải chủ độngmới biến được nhận thức thành hành động. Nhà giáo dục này không chỉ phải rành tâm lý lứa tuổi, mà còn phải có kiến thức và kỹ năng về nhóm để biết vận dụng tâm lý nhóm vào công tác giáo dục. Sinh hoạt nhóm rất quan trọng trong việc giúp trẻ nên chủ động để tự quyết. GDKNS cũngkhông thể thành công nếu xã hội, nhất là gia đình, không đổi cách nhìn đứa trẻ, xem nó như: "con nít, chẳng biết gì", giáo 3 bản ở trường mầm non. Nghi thức văn hóa trong ăn uống là một nét văn hóa mà trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít được quan tâm chú ý tới và ít người biết được rằng: Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh của con người. Vì thế, trẻ cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa ăn uống. Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”, tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: Thuận lợi: Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào“Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương. Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây mới, đạt chuẩn quốc gia nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. Khó khăn Đồ dùng phục vụ tiết dạy còn nghèo nàn, đồ chơi của trẻ cũng rất ít, thiếu những hình ảnh đẹp, sinh động để trẻ quan sát. Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?Đối với giáo viên 5 được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ . Biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước đám đông, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và điạ chỉ nhà mình ở đâu. Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng xử với mọi người xung quanh. Học cánh lắng nghe mọi người và đối đáp. Nhận biết những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (trong sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ, ) Đối với trẻ mầm non. Hành vi bắt chước.Thói quen thực hiện lâu ngày → kỹ năng. Nên chúng ta chỉ dạy trẻ. Không nên→ những hành vi này sẽ được tích luỹ trong quá trình hướng dẫn của giáo viên. Những kỹ năng cơ bản đầu tiên của trẻ mầm non là: Tự tin Hợp tác Tò mò Giao tiếp - Câu hỏi gợi ý. Nếu lạc đường sẽ tìm đến ai để hỏi? - Nếu có người lạ đụng chạm vào người con phải làm gì? Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào? Dạy kỹ năng sống theo chủ đề. Ví dụ: Chủ đề “Nhận biết những nguy cơ cháy nổ có thể gặp”Nhận biết các nguồn gây ra lửa (bếp gas, bật lửa, cồn, nến, dầu, xăng, ) Biết ảnh hưởng tốt /xấu của lửa trong cuộc sống. Biết cách dập lửa an toàn (khăn ướt, nước, bình xịt). Giáo viên có thể cho trẻ đóng vai giả làm chú lính cứu hoả → từ đó trẻ sẽ được trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết cho mình. Hình thức giáo dục kỹ năng sống. Hoạtđộng vui chơi. Trong các nghi thức văn hoá.Trong quá trình “sai vặt”trẻ giáo kỹ năng sống được thông qua các hình thức. Hoạt động vui chơi:Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp hìnht hành khả năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển những kỹ năng sống.→Qua thực tế khi tổ chức vui chơi cho trẻ giáo viên chưa chú trọng hinh thành những kỹ năng sống và trí tưởng tượng cho trẻ. Giáo dục kỹ năng sống được thông qua các hình thức. Hoạt động vui chơi: Ví dụ: Trong trò chơi xây dựng sẽ thấy được giá trị thật độc đáo của việc phát triển nhân cách hay hình thành kỹ năng sống cho trẻ.→ Xã hội của trẻ em 7 hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. + Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụngnhững đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Biện pháp 4: Biện pháp xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy trẻ kỹ năng sống *. Trách nhiệm của trường mầm non - Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của trường, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng kế hoạch năm học cho từng độ tuổi phù hợp với đặc điểm của chương trình. - Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra. - Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả. * Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ? 9 và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn. - Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoc học khi chơi với nhau. - Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việctham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời. - Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ múôngiáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. - Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Biện pháp 6: Biện pháp chỉ dẫn cho giáo viên và tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy trẻ các kỷ năng sống cơ bản - Trứơc hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ. - Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi. Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có 11 ( Tổng số trẻ là 26) STT Kết quả Kỹ năng sống cho trẻ Số lượng Tỷ lệ % 1 Loại tốt 8 30,76 2 Loại khá 11 42.3 3 Loại TB 7 26,92 4 Loại yếu 0 0 Với trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng tiết dạy. Trẻ có kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại tốt, hiểu biết rộng về tự nhiên cũng như về xã hội. Đặc biệt trong hội thi bé khỏe măng non và giáo dục bảo vệ môi trường các cháu lớp tôi thể hiện rất tốt và có ý thức bảo vệ môi trường. Được ban giám khảo đánh giá rất cao. Đối tượng phụ huynh: Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kỹ năng sống, tạo điều kiện cùng công tác với cô giáo để rèn kỹ năng sống của trẻ đạt hiệu quả cao nhất, đó cũng đã góp phần nâng cao chất lượng rèn kỹ năng sống cho trẻ. PHẦN C. KẾT LUẬN: Kết luận: - Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ, có năng lực sư phạm, nắm chắc chuyên môn. - Có sự hiểu biết về kỹ năng dạy trẻ rèn kỹ năng sống - Có sự sáng tạo trong mỗi tiết dạy, luôn có sự đổi mới trong phương pháp dạy trẻ - Thường xuyên rèn luyện bản thân, kỹ năng dạy, thao tác, rèn luyện giọng nói Đồ dùng dạy trẻ phong phú sáng tạo hấp dẫn với trẻ. Làm tốt công tác tuyên truyền với các bậc phụ huynh. 13

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_trong_giao_duc_ky_nan.doc