Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Cư Pang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Cư Pang
Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề. Công tác giáo dục là một chủ trương lớn, quan trọng của ngành giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng, là một ngành học cần thiết, một tác nhân quan trọng tác động và hình thành nhân cách con người, hình thành ngôn ngữ Tiếng Việt. Người Việt Nam ta rất tự hào vì có vốn Tiếng Việt giàu và đẹp. Tiếng Việt giàu đẹp vì nó là sự kết tinh của lịch sử đã bao đời nay cùa cha ông ta. Đó là lịch sử lao động sản xuất và chiến đấu để tồn tại và phát triển, để bảo vệ và dựng xây đất nước. Tiếng Việt giàu đẹp bởi nó là tiếng nói của dân tộc Việt Nam. Từ xưa cho đến nay Tiếng Việt vẫn rất quan trọng đối với mọi người dân Việt Nam nói chung và trẻ em lứa tuổi mầm non dân tộc thiểu số nói riêng. Trong thực tế, trẻ vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số đa số trẻ giao tiếp chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ đồng bào dân tộc thiểu số biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng Việt. Nhiệm vụ giáo dục Mầm non là nền móng đầu tiên của hệ thống giáo dục “ Mẫu giáo tốt mở đầu cho một nền giáo dục tốt”, với trách nhiệm và nhiệm vụ vô cùng quan trong đó mỗi giáo viên phải cố gắng nổ lực hết mình làm sao để các cháu Mầm non sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một. Qua thực tiễn lớp lá 4 năm học 2017 - 2018 trường Mầm non Cư Pang đơn vị mà tôi công tác nằm trong vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 95%. Để trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thuận lợi trong việc giao tiếp và tham gia vào các hoạt động ở trường lớp nói chung và hoạt động tăng cường Tiếng việt mọi lúc mọi nơi nói riêng, cô giáo cần khắc phục mọi khó khăn giúp trẻ tiếp thu được kiến thức mới, đồng thời tạo hứng thú cho trẻ đến trường mạnh dạn, tự tin và tích cực hoạt động, nâng cao chất lượng giao tiếp với cô và bạn bè . Qua mỗi lần lên lớp tiếp xúc, tôi nhận thấy trẻ tiếp xúc với nhau hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ, nói câu cụt, không có dấu, không có ý nghĩa. Trong quá trình áp những biện pháp tăng cường Tiếng Việt nhằm giúp trẻ phát âm thành thạo, tự tin khi giao tiếp với cô và 1 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang dục Việt Nam: Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện trong tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục. Từ xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cho đến hoạt động cụ thể của người giáo viên như lập kế hoạch, xây dựng môi trường giáo dục,mọi hoạt động phải hướng tới từng trẻ cũng như từng nhóm trẻ nhỏ và nhóm trẻ lớn để tạo cơ hội cho trẻ được học tập trong điều kiện cụ thể nhằm hỗ trợ trẻ phát triển tở tất cả các lĩnh vực. Vì vậy tôi xây dựng các giải pháp, biện pháp bám sát vào các chỉ số trong từng tiêu chí để đạt hiệu quả cao. Như tiêu chí 7: Kế hoạch giáo dục tuần/ chủ đề nhánh thể hiện được các mục tiêu phù hợp với sự phát triển của trẻ. Tiêu chí 7: chuẩn bị, tổ chức sử dụng môi trường giáo dục đạt hiệu quả nhất. Tiêu chí 8: Hoạt động hỗ trợ trẻ dân tộc thiểu số. Thực hiện công văn số 56/ KH- BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Mô đum 3 với nội dụng : Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Module 7: Môi trường giáo dục cho trẻ Mầm non. Đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho bậc học mầm non cho trẻ tắm trong môi trường Tiếng Việt. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Theo sách “Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số” trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo 5-6 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học Tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học Tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc cho trẻ mẫu giáo làm quen Tiếng Việt, phần lớn trẻ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa 3 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Trẻ nói câu có nghĩa 5/20 25 15/20 75 - Thuận lợi : Lớp luôn được sự quan tâm của Nhà trường, hội cha mẹ học sinh về tinh thần cũng như vật chất. Cơ sở vật chất có sân chơi sạch sẽ, an toàn, phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng đồ chơi cho trẻ học tập và vui chơi tương đối đầy đủ, đồ dùng , đồ chơi tự tạo từ những nguyên vật liệu mở: Như lốp xe, vỏ chai, thùng sơn, tre, nứa sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực các hoạt động trong ngày. Tổ chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham dự các buổi chuyên đề do cụm chuyên môn tổ chức, thường xuyên tổ chức các tiết dạy mẫu tại trường để phổ biến những phương pháp hình thức đổi mới trong chương trình mầm non lấy trẻ làm trung tâm. - Khó khăn : Đời sống kinh tế của một số phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn đa số là làm nông trên 40% là hộ nghèo nên sự quan tâm về chăm sóc giáo dục trẻ chưa cao. Phụ huynh học sinh chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc đưa con em mình đến trường đúng độ tuổi. Trẻ đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung trong buôn và giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, vì vậy trẻ dân tộc thiểu số còn hạn chế về ngôn ngữ Tiếng Việt.Khả năng chuyển thể từ các tiết dạy, lồng ghép Tiếng Việt mọi lúc mọi nơi của cô chưa tạo ra được tính kịch, sự kiệncác câu hỏi, lời thoại còn dài dòng, kém hấp dẫn, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa họcdẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao. Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã thực hiện những giải pháp tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần, vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo, tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ, lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động.Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt, cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. 5 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang Mời phụ huynh tham dự một số tiết dạy mẫu, chuyên đề và có sự giúp đỡ hỗ trợ phụ huynh. Tổ chức các hội thi có sự tham dự của các bậc phụ huynh như: Bé yêu thơ, Đô rê mi....do lớp tổ chức. Từ đó phụ huynh sẽ có những hiểu biết, khái niệm sơ đẳng về hoạt động mà con em mình được học tập trên lớp. Và họ cũng thấy vui vẻ và phấn khỏi khi con em mình được tham gia các hoạt động thú vị trên lớp. Sự quan tâm của cô giáo đối với học trò và kết hợp chặt chẽ nhà trường, giáo viên với phụ huynh từ đó họ nhận thấy tầm quan trọng của Tiếng Việt. Đó cũng là đóng góp một phần không nhỏ từ phía gia đình đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. + Vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo. Phụ huynh đã có cái nhìn mới hơn về việc cho trẻ đến trường đúng độ tuổi. Phụ huynh đã tin tưởng gửi gắm con em mình đến trường và đồng cảm, chia sẻ những khó khăn cùng, cô giáo hay gần gũi giao tiếp với phụ huynh để hiểu được các hoạt động của chương trình, vận động họ sẵn sàng cung cấp nguyên vật liệu có sẵn ở nhà để cô và trẻ làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phục vụ cho các hoạt động, phụ huynh cũng đã ủng hộ ngày công dọn vệ sinh và tham gia các hoạt động khác do trường tổ chức. Qua việc áp dụng một số biện pháp trên tôi thấy phụ huynh đã cố gắng đưa con em tới lớp chuyên cần hơn, quan tâm đến con em mình hơn, đưa đón đúng giờ và đồng cảm với giáo viên hơn. Và qua việc cho trẻ sử dụng các đồ dùng, đồ chơi tự tạo một cách trực tiếp trong hoạt động và nhất là với những đồ dùng, đồ chơi cô và trò tự tay làm ra tôi nhận thấy trẻ tập trung chú ý hứng thú hơn, trẻ hoạt động với đồ dùng tích cực hơn, giúp quá trình tăng cường Tiếng Việt của trẻ tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn. * Giải pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ. Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động. + Nghiên cứu các tài liệu và quan sát về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi: Để giáo dục trẻ được tốt thì bản thân giáo viên phải hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để biết được khả năng của trẻ, trẻ cần gì và muốn gì. Vì vậy trong quá trình đi phổ cập, được trực tiếp trao đổi phụ huynh, là cơ hội để giáo viên tìm hiểu về môi trường sống, tính cách của trẻ. Trẻ nhút nhát, rụt rè, phát âm sai, phát âm hay bị 7 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi lớp lá 4 trường Mn Cư Pang + Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động: Sau khi nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tôi đầu năm học tôi khảo sát trẻ để năm bắt sự phát triển của từng trẻ, sau đó dựa vào các tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm tôi lên kế hoạch cụ thể cho chủ đề, chủ đề nhánh. Trong kế hoạch giáo dục năm học tôi bám vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm gồm 13 tiêu chi và 34 chỉ số. Tôi sử dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3, 4 về thực hiện các nội dung giáo dục theo chương trình Giáo dục mầm non và thực hiện các nội dung giáo dục gần gũi, phù hợp với trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Căn cứ vào Chỉ số 3: Thực hiện các nội dung giáo dục theo Chương trình giáo dục mầm non, tôi chủ động xây dựng kế hoạch tuần và đưa ra đề tài phù hợp và đúng với chương trình giáo dục mầm non, dựa vào hướng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo là người gợi mở sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Và đánh giá trẻ hằng ngày và cuối chủ đề. Ví dụ : Áp dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3. Tôi lập mạng chủ đề cả năm gồm 9 chủ đề, ở mỗi chủ đề phân ra các chủ đề nhánh. Thường một chủ đề có 2 đến 3 chủ đề nhánh, đối với chủ đề ghép tôi thực hiện 5 chủ đề nhánh như chủ đề “Thế giới thực vật- tết và mùa xuân”. Chủ đề “Trường mầm non” với 3 chủ đề nhánh “Trường mầm non của bé” “Lớp bé yêu thương” “Những hoạt động thú vị”. Tuần đầu của chủ đề tôi chọn những từ tăng cường Tiếng Việt vào thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm những từ : Lớp lá 4, chào cô con vào lớp, xích đu... và tăng cường mọi lúc mọi nơi. Vì mới bước vào năm học nên tôi chọn những từ Tiếng Việt ngắn gọn, dễ hiểu. Thứ sáu cho trẻ ôn các từ trong học tuần dưới hình thức trò chơi.Cứ như vậy dựa vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm đến tuần hai, tuần ba rồi tới chủ đề Bản thân và đến hết năm tôi và xây dựng môi trường Tiếng Việt cho trẻ . Để xây dựng kế hoạch tôi tiến hành cùng trẻ xây dựng môi trường Tiếng Việt trong và ngoài lớp học theo hướng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm căn cứ vào tiêu chí xây dựng môi trường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số để xây dựng môi trường trong lớp và ngoài lớp học: 9 Người thực hiện: Đỗ Ngọc Hiếu. Đơn vị: Trường Mầm non Cư Pang
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tang_cuong_tieng_viet.doc