Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi trường mầm non
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi trường mầm non
BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Trải qua quá trình tiến hoá lâu dài con người mới hoàn thiện và phát triển như ngày hôm nay. So với con vật, con người khác xa là nhờ ngôn ngữ, chính ngôn ngữ là công cụ để con người thực hiện hoạt động trí tuệ là phương tiện để trao đổi tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Nhờ có ngôn ngữ mà người ta có thể trao đổi, chia sẻ những hiểu biết, những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm kín, dạy cho nhau cách làm mgười... Theo Vưgôtki – một nhà nghiên cứu tâm lí người Nga cho rằng: “Ngôn ngữ rất quan trọng trong quá trình tư duy đặc biệt là tư duy bậc cao bởi ngôn ngữ là công cụ để truyền đạt kiến thức đồng thời là phương tiện để con người thực hiện hoạt động tư duy”. Lứa tuổi Mầm non là thời kỳ phát cảm ngôn ngữ. Đối với trẻ ngôn ngữ được coi là phương tiện để phát triển toàn diện, là công cụ để hình thành nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ tốt sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận được với các môn học như: làm quen với MTXQ, tạo hình, âm nhạc, làm quen với TPVHNhờ có ngôn ngữ mà khả năng trẻ em cảm thụ sâu sắc hơn cái hay cái đẹp trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nhờ có ngôn ngữ mà trí tuệ của trẻ phát triển vì: Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, ngôn ngữ là phương tiện để trẻ biểu hiện sự nhận thức của mình. Ngôn ngữ còn có một vai trò không nhỏ trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ. Ngôn ngữ góp phần trang bị cho trẻ dồi dào những hiểu biết về những nguyên tắc và những chuẩn mực đạo đức, rèn luyện cho trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với xã hội mà trẻ đang sống. Ngôn ngữ cũng là một một phương tiện để trẻ thực hiện Hoạt động vui chơi - Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo... Song ngôn ngữ của trẻ đặc bịêt là khả năng phát âm còn chưa đúng hay nói cách khác là trẻ chưa nói đúng chính âm (nguyên tắc phát âm một cách chuẩn mực). Vốn từ của trẻ còn nghèo nàn, trẻ chưa nói đúng ngữ pháp, diễn đạt câu còn lủng củng, chưa mạch lạc... Để có thể phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non con đường thực hiện là bắt trước và luyện tập dưới sự hướng dẫn của cô giáo, của người lớn.Với một vai trò quan trọng như vậy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một nhu cầu tất yếu. Trường mầm non là nơi tạo điều kiện để trẻ phát triển toàn vẹn nhân cách trong đó vai trò của nhà giáo duc - của các Cô giáo mầm non có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của trẻ nói chung và sự phát triển ngôn ngữ nói riêng..Vì vậy nên người lớn, cô giáo Mầm non phải có một vốn từ phong phú, phát âm chuẩn, lời nói mạch lạc phải là khuôn mẫu để trẻ noi theo. Đặc biệt trẻ em tuổi mẫu giáo 4 -5 tuổi đang trong thời kì hoàn thiện dần về ngôn ngữ. Làm thế nào để dạy trẻ “ nói đúng ngôn ngữ tiếng Việt” là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu. 2. Tên sáng kiến “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3- 4 tuổi trường mầm non” Tâm lý học Mác xít đã chỉ ra rằng trong não của con người có vùng “ brock” ở bán cầu đại não, quyết định sự phát triển ngôn ngữ, vùng “Venicle” ở thuỳ thái dương quyết định khả năng lĩnh hội ngôn ngữ. Trong tai con người có hệ thống phân tích ngôn ngữ, trong miệng con người có cơ quan phát âm. Tiền đề sinh lý là yếu tố quyết định đối với việc phát triển ngôn ngữ. Cô giáo cần hướng dẫn trẻ bảo vệ các cơ quan này. - Yếu tố giáo dục góp phần đẩy sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. - Yếu tố môi trường, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc vào yếu tốt môi trường (môi trườn tự nhiên, môi trường xã hội). Trẻ sống trong môi trường tốt thì ngôn ngữ của trẻ phát triển theo hướng tích cực và ngược lại. - Sự tích cực của cá nhân trẻ. * Lý thuyết to lớn của Vưgôtki về vai trò của ngôn ngữ trong sự phát triển của tư duy. Vưgôtki cho rằng “Ngôn ngữ rất quan trọng trong quá trình tư duy đặc biệt với hoạt động tư duy bậc cao của con người. Bởi lẽ ngôn ngữ là công cụ để truyền đạt kiến thức đồng thời là phương tiện để con người thực hiện hoạt động tư duy.” (Nguồn: Tâm lý học trẻ em) * Đặc điểm ngôn ngữ của trẻ 3-4 tuổi Phát triển ngôn ngữ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục mần non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi, ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức và chuẩn mực văn hóa. * Về mặt ngữ âm: - Thời kì này trẻ đang hoàn thiện dần về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu, âm cuối, âm đệm, thanh điệu đang dần dần được định vị. Trẻ có thể phát âm gần đúng hết các âm của tiếng mẹ đẻ. - Tuy vậy, ở lứa tuổi này, trẻ nhỏ vẫn còn mắc một số lỗi sai về phát âm, còn nhầm lẫn khi phát âm một vài phụ âm và nguyên âm( x-s, l-n,..uô,ie) và thanh điệu (?, ~). Mỗi trẻ thường nói sai một âm hoặc một thanh riêng. - Khi nói trẻ 3-4 tuổi vẫn còn âm ê..a trẻ vẫn phát âm sai thanh ngã và âm cuỗi * Vốn từ: PGS.TS Nguyễn Công Khanh, chuyên gia cao cấp của Trường mầm non Hoàng Gia (Hà Nội) từng chia sẻ rằng khi trẻ lên ba tuổi, trẻ có một vốn từ vựng khoảng trên một ngàn từ, một số chuyên gia ngôn ngữ khác cũng cho rằng vốn từ của bé lúc này có thể dao động từ 500-900 từ, và trẻ đã biết dùng các cụm từ và câu dài từ 7-8 từ. * Về ngữ pháp: Khi bước vào tuổi thứ ba, bé yêu của bạn có thể biết đặt câu hỏi và bày tỏ ý kiến khiến bạn đôi lúc phải kinh ngạc như một người mẹ từng tâm sự rằng chị chuẩn bị quần áo cho con đi học, cô bé nói “Theo con là, hôm nay con sẽ mặc màu hồng”. Và lúc này, bé đã học cách yêu cầu, một cách lịch sự như nhờ bố mẹ, anh chị lấy cái này cái kia đã biết dùng từ “làm ơn”. Chúng có thể nói về Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn tìm tòi nghiên cứu tài liệu pục vụ tiết dạy Trẻ chăm đi lớp, tỷ lệ chuyên cần cao Đối với phụ huynh: Nhiều phụ huynh quan tâm tới các cháu, luôn thực hiện tốt các phong trào đóng góp của nhà trường để phục phụ cho công tác giáo dục trong trường. Về đội ngũ giáo viên: Giáo viên đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn, giáo viên nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ. Có nhiều giáo viên giỏi các cấp. Về đồ dùng, đồ chơi: Phong phú, đa dạng, có đồ chơi học tập, đồ chơi sân khấu, tiện cho việc dạy trẻ. b. Khó khăn: Do trình độ nhận thức không đồng đều, nhiều trẻ là con em nông thôn nên còn nặng nề bởi thổ ngữ địa phương. Lớp có một vài trẻ chậm nói so với độ tuổi nên tôi gặp nhiều khó khăn trong việc dạy trẻ. Hơn 30% trẻ chưa phân biệt sự khác nhau giữa các từ khi phát âm mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung. Vốn sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng, trẻ phát âm sai do ảnh hưởng của ngôn ngữ xung quanh. Trẻ nói câu chưa đủ thành phần chủ yếu là câu tỉnh lược. 1/3 là con em công nhân, 2/3 là con em nông dân nên phụ huynh còn bận nhiều công việc hoặc những lý do khách quan nào đó không trò chuyên với trẻ hoặc trẻ nghe trẻ nói. Nhiều khi những nhu cầu mà trẻ muốn trẻ chưa cần nói hoặc xin phép phụ huynh đã đáp ứng ngay. Khi nói trẻ hay nói chậm và kéo dài giọng, đôi kho còn ậm ừ, e, a, không nói liên tục mạch lạc. Trẻ nói giọng, nói lắp nhiều, nhầm lẫn từ thanh điệu này sang thanh điệu khác. Ví dụ: Ngã trẻ nói ngả (ngạ) Ngủ Ngụ. c. Khảo sát trẻ trước khi áp dụng sáng kiến. Tổng số trẻ được khảo sát: 27 trẻ. Nội dung kiểm tra Số trẻ đạt Số trẻ không đạt Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ trẻ (%) trẻ (%) văn học cũng có nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ham học hỏi của trẻ ở lứa tuổi này. Rối tay Qua “Góc thư viện sách, truyện”. tôi còn tổ chức các hoạt động đọc thơ, kể chuyện, cho trẻ tập đóng kịch để trẻ được nói những ngôn ngữ của các nhân vật trong truyện để từ đó trẻ làm giàu vốn từ của bản thân. Để gây được sự hứng thú của trẻ khi tham gia vào các hoạt động đó thì việc tạo không gian mang đậm tính văn học là rất cần thiết, ngay từ đầu năm học tôi đã vận động phụ huynh đóng góp tranh thơ, truyện tranh ngoài chương trình để kể cho trẻ nghe vào các hoạt động chiều và cho trẻ chơi trong các giờ hoạt động góc. Bản thân tôi luôn tìm tòi, sưu tầm sách truyện, các họa báo, tạp chí cũ, tìm tòi cách làm rối từ các nguyên liệu bỏ đi như vỏ chai, lõi cuộn chỉ, các mảnh vải vụn làm rối tay để làm các nhân vật trong truyện phục vụ cho tiết họ Ví dụ: Đồng dao “Dung dăng dung dẻ” Dung dăng / dung dẻ Dắt trẻ / đi chơi Đến ngõ / nhà trời Lạy cậu / lạy mợ Cho cháu / về quê Cho dê / đi học Cho cóc / ở nhà Cho gà / bới bếp Xì xà / xì xụp Ngồi thụp / xuống đây - Tôi dạy trẻ đọc theo nhịp 2-2 - Cách chơi: Trẻ nắm tay nhau, vừa đi vừa đọc và tay vung theo nhịp của của bài hát. Đến câu “Ngồi thụp xuống đây” trẻ nắm tay nhau ngồi thụp xuống sau đó đứng dậy lại đi tiếp. b. Nghe hiểu: Để giúp trẻ nghe và có thể làm theo 2, 3 hành động liên tiếp, khi tiến hành các hoạt động sinh hoạt hàng ngày ở lớp, tôi yêu cầu trẻ nghe và thực hiện hai, ba yêu cầu của cô. Ví dụ: “ Tô bài xong rồi, các con gấp sách lại, mang sáp màu và sách lên đây cho cô” - Để giúp trẻ nghe hiểu được tốt cô có thể tổ chức các trò chơi học tập như: “Chọn quà tặng bạn”, “ Tìm đồ vật cho đúng”, “Tôi có điều bí mật” Ví dụ Trò chơi: “Tôi có điều bí mật” - Mục đích giúp trẻ nhận biết và tả các nhân vật trong gia đình. - Chuẩn bị: Tranh vẽ các vật tropng bìa cứng (động vật nuôi trong nhà, thức ăn, đồchơi, đồ dùng, phương tiện đi lị của gia đình...) - Cách chơi: + Không cho trẻ xem tranh trước. + Cô mô tả vật trên tranh ( Thuộc nhóm nào? Được sử dụng như thế nào? Có thể tìm thấy ở đâu?..) + Cho trẻ đoán sau mỗi lần mô tả. Chẳng hạn: Đó là một loài động vật có hai chân, đẻ trứng. Đấy là con gì? ( Con gà). Trẻ nào đoán đúng, cô đưa bức tranh cho trẻ đó. Khi tất cả các bức tranh đã đoán đúng, cô hỏi từng trẻ xem bức tranh vẽ gì. Cô yêu cầu trẻ miêu tả đặc điểm của các con vật và nói câu đầy đủ. c. Trò chuyện với trẻ - Để luyện khả năng nghe và nói cho trẻ, người lớn cần dành thời gian trò chuyện với trẻ. Trong quá trình trẻ hoạt động có thể cung cấp từ mới cho trẻ, làm phong phú vốn từ và giúp trẻ mở rộng sự hiểu biết về nghĩa của các từ. Đồng thời sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp với trẻ mọi lúc, mọi nơi. + Lỗi về âm đầu. + Lỗi về âm đệm. + Lỗi về âm chính. + Lỗi về âm cuối. + Lỗi về thanh điệu. - Nguyên nhân mắc lỗi: + Do bộmáy phát âm của trẻ chưa phát triển hoàn thiện. + Do đặc điểm phương ngữ, môi trường giao tiếp, sự nuông chiều của người lớn... + Do một sốâm tiết tiếng Việt khó phát âm, khó định vị... (khuya khoắt, loắt choắt). - Để sửa lỗi cho trẻ, tôi đã: + Kiểm tra tình hình phát âm của trẻ và thường xuyên vận dụng các phương pháp, biện pháp để luyện phát âm cho trẻ phù hợp + Xác định đúng được các lỗi phát âm của trẻ, xác định được nguyên nhân mắc lỗi và có biện pháp cụthể để sửa lỗi phát âm đó cho trẻ. + Tự rèn luyện bản thân để phát âm chuẩn theo qui định. Phát âm chuẩn trong quá trình giao tiếp với trẻ. + Tổchức các hoạt động cho trẻ thực hành luyện phát âm Nắm được những đặc điểm phát âmcủa trẻ tôi đã áp dụng các biện pháp sau: a. Rèn luyện phát âm theo mẫu. - Dạy trẻ phát âm theo cô các âm to nhỏ nhanh chậm khác nhau bằng cách cô phát âm mẫu và yêu cầu trẻ nói theo. Cô phát âm trước mặt trẻ để trẻ có thể quan sát sự chuyển động của cơ quan phát âm. Cô có thể chỉ ra cho trẻ vị trí của các cơ quan phát âm như: môi, răng, lưỡi, độ mở của miệng. Sau đó cho trẻ phát âm lại. Ví dụ 1: Con hãy nói theo cô nào: “Nu na nu nống” b. Luyện phát âm qua trò chơi. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ Nhà trẻ song để có bước chuyển từ hoạt động này sang Hoạt động vui chơi - Hoạt động chủ đạo của trẻ Mẫu giáo thì trẻ cần phải phát âm đúng. Nắm được đặc điểm này nên tôi đã vận dụng sáng tạo các trò chơi vào rèn luyện phát âm cho trẻ. * Trò chơi luyện thở: - Mục đích của trò chơi này giúp trẻ hít thở đều biết cách lấy hơi khi nói. Rèn luyện cơ lưỡi, cơ môi. - Trò chơi: Thổi bóng bay, thổi nơ bay, thổi cốc nước nóng, gió thổi. Ví dụ: Chơi thổi cốc nước nóng. Có đưa ra một tình huống, cho trẻ tưởng tượng tay cô cầm cốc nước nóng rồi mới uống được cô ra hiệu cho trẻ thổ từng hơi dài, sau đó khi nước nguội thì trẻ uống nước (trẻ hít vào rồi hà ra một cái như vừa uống xong).
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_c.docx