Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng các nguyên vật liệu tự nhiên
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng các nguyên vật liệu tự nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng các nguyên vật liệu tự nhiên
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN TRẺ 5 - 6 TUỔI LÀM ĐỒ DÙNG, ĐÒ CHƠI BẰNG CÁC NGUYÊN VẬT LIỆU Tự NHIÊN Người nghiên cứu: Lê Thị Liễu Chức vụ: Tổ phó tổ 5 tuổi - Giáo viên. Đơn vị: Trường mầm non Cát Bi - Quận Hải An - Hải Phòng 1 triển toàn diện cho trẻ. GIỚI THIỆU 1. Thực trạng: Trường mầm non Cát Bi là trường công lập duy nhất của Quận Hải An. Trường có cơ sở vật chất khang trang, đảm bảo tốt cho việc tổ chức hoạt động học và chơi của trẻ. Trường thường xuyên nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và phụ huynh học sinh chính vì vậy năm học 2012-2013 trường được công nhận là trường chuẩn quốc gia mức độ 2, trường đạt chất lượng giáo dục cấp độ 2. - Về trình độ giáo viên: Trường có đội ngũ giáo viên dày dặn kinh nghiệm, 100% đạt chuẩn và 47% trên chuẩn. Bản thân tôi là giáo viên có trình độ Đại học chính quy, có lòng yêu nghề, mến trẻ được phụ huynh và đồng nghiệp tin yêu. - Về phía trẻ: Trẻ em ngay từ bé đã được làm quen với những nét vẽ đầu tiên, với trò chơi xé giấy, chơi với đất nặn nên ít nhiều trẻ đã có một số kỹ năng về vẽ, nặn, xé dán. Trẻ 5- 6 tuổi kỹ năng tạo hình cứng cáp hơn và trẻ rất muốn thể hiện kinh nghiệm sống của mình thông qua các sản phẩm tạo hình. - Về phía phụ huynh: Luôn quan tâm đến hoạt động của cô và trẻ, ủng hộ cả về vật chất, tinh thần tích cực sưu tầm các loại nguyên vật liệu đa dạng, phong phú. Thực tế tại trường chúng tôi: Những năm gần đây giáo viên đã tổ chức nhiều hoạt động sáng tạo nghệ thuật cho trẻ song chủ yếu vẫn là những nguyên vật liệu như giấy, bút, đất nặn. sử dụng các loại nguyên vật liệu tự nhiên sẵn có như rơm, lá khô, vỏ sò, vỏ hộp, chai lọ; đồng thời chưa tổ chức thường xuyên. Do vậy sản phẩm còn đơn điệu, chưa kích thích trẻ tham gia sáng tạo. Sự đa dạng của các nguyên vật liệu tự nhiên đã thu hút sự chú ý của trẻ, trẻ có thể ngồi say sưa gấp gấp dán dán với những thứ như lá cây vải vụn, vỏ kẹo hay vỏ hộp sữa tuy nhiên sản phẩm của trẻ chưa đẹp, trẻ chưa thực sự tự tin, chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Về phía phụ huynh: Rất nhiều phụ huynh còn do dự khi đề cập vấn đề này. Họ cho rằng trẻ con chưa biết gì về nghệ thuật, hơn nữa những phế liệu ấy thì làm được gì? Từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt động tạo hình bằng các nguyên vật liệu tự nhiên vào thực nghiệm cho trẻ ở lớp tôi. Cụ thể là tôi khuyến khích trẻ sáng tạo và sử dụng có 3 3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài: - Nghiên cứu đặc điểm tâm lý trẻ trong hoạt động tạo hình. - Nghiên cứu về ưu điểm nổi bật của các loại NVLTN đối với hoạt động sáng tạo nghệ thuật. - Nghiên cứu về tầm quan trọng và ích lợi của việc cho trẻ tự tạo ra đồ chơi từ những NVL sẵn có đối với sự phát triển của trẻ. - Nghiên cứu cách làm một số loại đồ dùng, đồ chơi từ các loại NVLTN. 4. Vấn đề nghiên cứu: Sử dụng các biện pháp hướng dẫn trẻ 5- 6 tuổi tích cực, tự tin và chủ động tham gia vào hoạt động làm đồ dùng đồ chơi bằng các nguyên vật liệu. 5. Giả thiết nghiên cứu: Nghiên cứu các biện pháp hướng dẫn trẻ 5- 6 tuổi làm đồ dùng đồ chơi bằng các NVLTN nhằm phát huy khả năng sáng tạo của trẻ. Đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ hình thành tình yêu đối với vẻ đẹp thiên nhiên, với cuộc sống và nghệ thuật. PHƯƠNG PHÁP l. Khách thể nghiên cứu: Tôi chọn trường mầm non Cát Bi - Hải An - Hải Phòng là nơi tiến hành cho việc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng. Giáo viên: 1. Lê Thị Liễu - Giáo viên lớp 5A2 2. Nguyễn Thị Thủy - Giáo viên lớp 5A1 Hai cô giáo giảng dạy hai lớp 5 tuổi có trình độ tương đương đều là giáo viên giỏi cấp Quận nhiều năm, có lòng nhiệt tình yêu nghề, mến trẻ và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Học sinh ở hai lớp được chọn tham gia nghiên cứu đều có đặc điểm tương đối đồng đều về thể lực và nhận thức. Các cháu đều tích cực, chủ động, ngoan ngoãn và thích tham gia hoạt động taọ hình. Kết quả khảo sát chất lượng của năm học trước, hai lớp tương đương nhau về điểm số các lĩnh vực phát triển. 2. Thiết kế: Tôi chọn 20 cháu lớp 5A2: Là nhóm thực nghiệm. 20 cháu lớp 5A1: Là nhóm đối chứng. Tôi đã tiến hành đo đầu vào của 2 nhóm và thu được kết quả như sau: 5 thực hiện theo các biện pháp vẫn thường được áp dụng tại trường mâm non, không sử dụng các biện pháp thực nghiệm. Nhóm lớp thực nghiệm của tôi: Tôi đã nghiên cứu và thiết kế các hoạt động học có sử dụng các biện pháp thực nghiệm. *Tiến hành dạy thực nghiệm: Thời gian tiến hành dạy thực nghiệm tôi áp dụng các chủ đề theo đúng kế hoạch của nhà trường đề ra. Tôi lựa chọn nội dung tổ chức hoạt động để lớp mình làm thực nghiệm như sau: Tháng/năm Tên chủ đề Tổ chức hoạt động Tháng An toàn Tổ chức hướng dẫn trẻ làm “Đồ chơi đêm 9/2013 Bộ vui tết trung thu rằm” Tháng Bé giới thiệu về mình Tổ chức hướng dẫn trẻ làm “Đồ chơi của 10/2013 Trường MN Cát Bi của bé lớp Bé”,“Đồ chơi tặng bạn” 7 Trẻ cùng bố mẹ và cô giáo sưu tầm tìm kiếm các loại nguyên vật liệu, sau đó trẻ cùng cô phân loại các nguyên vật liệu đó theo chất liệu để cho việc tiến hành hoạt động thuận lợi. Bước 2: Tạo môi trường mới lạ cho trẻ. Sau khi lựa chọn được nguyên vật liệu tôi làm một số sản phẩm gợi ý để ở một nơi nào đó trẻ dễ thấy nhằm tạo yếu tố bất ngờ đối với trẻ. Trẻ em rất nhạy cảm, với chúng một sự thay đổi dù là nhỏ cũng gây sự chú ý nhất là sự thay đổi ấy lại mới lạ, hấp dẫn. Trẻ sẽ say sưa ngắm nghía, bàn luận, cầm lên để chơi. Sau đó tôi dùng lời nói kích thích để trẻ hào hứng tham gia vào hoạt động sáng tạo một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Bước 3: Tổ chức cho trẻ sáng tạo nghệ thuật. Bằng những lời nói kích thích nhẹ nhàng tôi đã tạo được hứng thú cho trẻ. Trẻ say sưa cắt cắt, dán dán và bàn luận sôi nổi. Tôi theo dõi từng hoạt động của trẻ, động viên kịp thời và kích thích trẻ tham gia sáng tạo. Kết quả là trẻ tạo ra những sản phẩm ngộ nghĩnh, đáng yêu mà trẻ rất thích. Bước 4: Sử dụng có hiệu quả sản phẩm của trẻ. Tất cả những sản phẩm của trẻ tôi không cất đi mà sử dụng nó để ở các góc ở lớp học, bày ở các góc chơi hoặc mang về tặng bố mẹ Điều này làm cho trẻ vô cùng thích thú khi được học, được trang trí lớp bằng những thứ do mình làm ra, trẻ hãnh diện khoe với bạn bố, bố mẹ, điều này đã khích lệ, động viên trẻ rất nhiều. *Mô tả thực nghiệm. Tôi cho trẻ làm “Những con vật ngộ nghĩnh,đáng yêu”. - Mục đích yêu cầu: + Giúp trẻ phát triển sự khéo léo của đôi bàn tay, vận động các ngón tay. + Phát triển óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo từ các loại nguyên vật liệu tự nhiên. + Biết nâng niu trân trọng sản phẩm mình làm ra. - Nội dung: +Trẻ xác định được tên gọi, hình dáng đặc điểm cấu tạo của các con vật. + Trẻ biết tự lựa chọn nguyên vật liệu để làm ra các con vật ngộ nghĩnh. + Trẻ biết thể hiện cảm xúc của mình đối với con vật mình yêu thích. 9 như vô tri vô giác ấy trở lên sống động và gần gũi. Như vậy dưới sự hướng dẫn của giáo viên trẻ thực sự đã phát huy hết sự khéo léo và sáng tạo của mình, biết vận dụng các NVL khác nhau để tạo ra những sản phẩm có ý nghĩa. - Mô tả nhóm đối chứng. Cùng một hoạt động, nhưng trẻ tỏ ra lo lắng, không tự tin ,không khí trầm lắng, không hào hứng . Cụ thể là trẻ không biết sử dụng NVL nào để làm và làm như thế nào. Sản phẩm làm ra còn đơn điệu, chủ yếu là bìa giấy, đất nặn, chưa toát lên được cái ngộ nghĩnh của con vật. Như vậy ở nhóm này phần lớn trẻ chưa phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, chưa tích cực hào hứng chưa biết cách sử dụng đa dạng các NVL vào sản phẩm của mình sao cho đẹp , hấp dẫn PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ. Bảng 5: So sánh kết quả trung bình của 2 nhóm sau tác động. Kết quả trung bình trước Kết quả trung bình Độ chênh Nhóm Số trẻ thử nghiệm sau thử nghiệm lệch Thực nghiệm 20 0,4 1,75 1,35 Đối chứng 20 0,45 0,75 0,3 Nhìn bảng trên ta rằng kết quả của 2 nhóm trước thử nghiệm là tương đương. Sau tác động kiểm chứng có sự chênh lệch rõ rệt. Kết quả điểm trung bình của nhóm thực nghiệm cao hơn. Qua đó chứng tỏ biện pháp mà tôi hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng NVLTN là có thể chấp nhận được. Do vậy giả thiết khoa học mà tôi đưa ra ban đầu là đúng và đã được chứng minh. Tóm lại qua thời gian làm thực nghiệm, với những tác động tích cực tôi đã tiến hành thường xuyên trên trẻ bằng các hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi. Tôi đã quan sát và ghi chép lại từng hoạt động đồng thời đề ra mức độ ở lần sau cao hơn lần trước. Qua quá trình làm đồ dùng đồ chơi giúp trẻ nâng cao hơn về kỹ năng cắt, dán, chắp ghép và biết lựa chọn NVL phù hợp. Từ đó tự làm ra những đồ chơi có ý nghĩa, tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện các ý tưởng và cảm xúc của bản thân đồng thời góp phần to lớn trong phát triển toàn diện cho trẻ: 11 Sử dụng một số biện pháp hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng NVLTN cho thấy trẻ mẫu giáo hoàn toàn có đủ khả năng tự tạo ra nhiều loại đồ dùng, đồ chơi phong phú, đa dạng và giàu tính biểu cảm. Qua đó phát triển ở trẻ khả năng quan sát, ghi nhớ, tưởng tượng, thể hiện cảm xúc của mình về vẻ đẹp của thế giới xung quanh qua các hình thức tạo hình. đồng thời bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ, hình thành tình yêu đối với vẻ đẹp thiên nhiên, với cuộc sống và nghệ thuật. 2. Khuyến nghị: Để hoạt động tạo hình trở thành phương tiện quan trọng của giáo dục thẩm mỹ và hình thành nhân cách cho trẻ mầm non, khi hướng dẫn cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau: - Giáo viên cần có lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với nghề. - Cần thường xuyên sưu tầm lựa chọn những NVLTN đa dạng và tuyệt đối an toàn với trẻ. - Cô luôn đầu tư,suy nghĩ tìm ra những cái mới lạ, hấp dẫn để thu hút sự chú ý của trẻ, nắm bắt được nhu cầu học hỏi khám phá và khả năng sáng tạo nghệ thuật của trẻ. - Luôn luôn tạo bầu không khí vui tươi, thoải mái, tự nhiên tránh gò bó, áp đặt đối với trẻ, tạo môi trường nghệ thuật gần gũi với trẻ, động viên và khuyến khích trẻ kịp thời - Cần tổ chức thường xuyên, chuẩn bị chu đáo NVLTN và nội dung, chủ đề phù hợp với thực tế và nhu cầu của trẻ. - Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để thu thập NVLTN phong phú đa dạng và khuyến khích khả năng sáng tạo nghệ thuật của trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Trên đây là đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng đầu tiên của tôi về vấn đề tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ 5-6 tuổi nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các cấp lãnh đạo và bạn đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu của tôi hoàn thiện hơn. Tôi x in chân thành cảm ơn! Hải Phòng ngày 10 tháng 1 năm 2014 NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC Người nghiên cứu 13 PHỤ LỤC. 1. MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA. PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA GIÁO VIÊN. Họ tên: Tuổi: Trình độ đào tạo: Nơi công tác: Nơi ở hiện nay: Để nâng cao chất lượng tổ chức hướng dẫn trẻ 5 -6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi từ NVLTN, xin chị vui lòng trả lời một số câu hỏi sau Câu 1: Theo chị việc tổ chức hướng dẫn trẻ 5-6 tuổi làm đồ dùng, đồ chơi bằng NVLTN có tầm quan trọng như thế nào đối với sự phát triển thẩm mỹ của trẻ? - Rất quan trọng. - Quan trọng - Không quan trọng Câu 2: Theo chị đồ chơi tự tạo có ảnh hưởng như thế nào đối với đời sống tinh thần và sự phát triển toàn diện của trẻ? - Ảnh hưởng rất tốt. - Ảnh hưởng tốt. - Ảnh hưởng không tốt. Câu 3: Chị đã tổ chức cho trẻ làm đồ dùng đồ chơi như thế nào? - Rất thường xuyên. - Thường xuyên. - Không thường xuyên. Câu 4: Để tổ chức cho trẻ làm đồ dùng, đồ chơi hiệu quả cần phải có điều kiện gì? - NVL tự nhiên phong phú đa dạng, an toàn tuyệt đối. - Tạo tâm lý thoải mái. - Tạo mô trường mới lạ hấp dẫn. Ngoài những điều kiện trên theo chị còn những điều kiện nào khác nữa? Câu 5: Khi tổ chức cho trẻ làm đồ dùng đồ chơi chị còn gặp những khó khăn gì? - Thiếu NVL tự nhiên. - Khả năng sáng tạo còn hạn chế. 15 - Thể hiện sự thích thú, mạnh dạn, tự tin khi làm đồ dùng đồ chơi. - Biết chia sẻ cảm xúc kinh nghiệm làm đồ dùng đồ chơi của mình với bạn bè. - Biết cách thể hiện hoạt động tạo hình theo cách riêng của mì nh. - Nói được ý tưởng thể hiện sản phẩm của mình: Tên gọi, cách làm, NVL để làm. - Thể hiện sự cố gắng thực hiện công việc đến cùng. - Thể hiện cảm xúc của mình khi làm ra sản phẩm. - Sản phẩm làm ra đẹp, ngộ nghĩnh, hấp dẫn. - Biết nâng niu, giữ gìn sản phẩm mình làm ra. b. Phương pháp đánh giá. Quan sát, trò chuyện và đánh giá sản phẩm của trẻ. c. Mức độ đánh giá. Đánh giá trẻ theo 3 mức độ: + Mức độ 1: TX + Mức độ 2: TT + Mức độ 3: CXH - Quy định mức độ chưa xuất hiện (CXH) là 0 điểm, thỉnh thoảng (TT) là 1 điểm, thường xuyên (TX) là 2 điểm. - Để tính điểm tổng trung bình : Lấy số điểm trẻ đạt được theo quy định cộng tổng cả 3 mức độ lại chia trung bình cho 20 trẻ. Vớ dụ: bảng 1 nhóm thực nghiệm - CXH: 14 trẻ = 0 điểm - TT: 4 trẻ = 4 điểm - TX: 2 trẻ = 4 điểm Tổng 3 mức độ = 8 điểm. Lấy 8 điểm chia trung b ình cho 20 trẻ ta được điểm tổng trung bình là 0,4. 17
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_tre_5_6_tuo.docx