Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để giúp trẻ 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ mạch lạc thông qua hoạt động làm quen với văn học

docx 13 trang skkn 17/05/2024 2140
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để giúp trẻ 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ mạch lạc thông qua hoạt động làm quen với văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để giúp trẻ 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ mạch lạc thông qua hoạt động làm quen với văn học

Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để giúp trẻ 3-4 tuổi phát triển ngôn ngữ mạch lạc thông qua hoạt động làm quen với văn học
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 3 - 4 
 TUỔI “ PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ 
 MẠCH LẠC” THÔNG QUA HOẠT 
 ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC B. NỘI DUNG
 I. CƠ SỞ KHOA HỌC.
 Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con 
người, thông qua ngôn ngữ con người có thể giao lưu để hiểu nhau và trao đổi 
những thông tin cần thiết. Đối với trẻ, ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập vào 
thế giới xung quanh, là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách. Với trẻ 3 - 4 
tuổi, vốn từ của trẻ tương đối phong phú về số lượng cũng như từ loại. Tư duy 
của trẻ phát triển hơn, có nội dung hơn. Trẻ biết phát biểu những nhận định của 
mình, trẻ kể lại được những chuyện mà trẻ trong thấy, nghe được. Trẻ có thể kể 
theo tranh, đồ chơi hoặc đồ vật mặc dù phần lớn còn bắt chước giọng kể của 
người lớn. Thông qua các tác phẩm văn học như truyện kể, thơ ca, hò, vè, câu 
đố, tục ngữ, ca dao. Trẻ đã thực sự bị lôi cuốn vào các hoạt động khác một 
cách tích cực, có hiệu quả. Qua đó giáo viên có nhiều thuận lợi để giúp trẻ phát 
triển ngôn ngữ mạch lạc một giờ dạy hay không chỉ dừng lại ở chổ trẻ hiểu được 
điều gì? Trẻ có hứng thú lắng nghe hay không? Mà người giáo viên mầm non 
cần phải giúp trẻ biết thể hiện những suy nghĩ của mình, giúp trẻ nhập vai cùng 
nhân vật, sống cùng nhân vật, đặc biệt trẻ biết sử dụng ngôn ngữ của mình để 
đánh giá nhân vật, trò chuyện, đàm thoại, biết diễn đạt nguyện vọng sự hiểu biết 
của mình một cách mạch lạc. Trẻ biết kể lại câu chuyện theo tranh, đồ chơi, kể 
chuyện sáng tạo, biết kể trình tự, diễn cảm, rõ ràng mạch lạc, không nói ngọng, 
nói lắp.
 II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.
 Trong những năm qua, việc cho trẻ làm quen với văn học là một chuyên đề 
đã được Bộ giáo dục, Sở giáo dục đào tạo Quảng Bình, Phòng GD- ĐT Lệ Thủy 
triển khai rộng rãi về các trường học, đến tận từng giáo viên với nhiều giải pháp 
tích cực và thực hiện có hiệu quả. Trong quá trình thực hiện cơ sở vật chất, trang 
thiết bị dạy học, đồ dùng đồ chơi được tăng trưởng đáng kể, môi trường trong và 
ngoài lớp phong phú lôi cuốn trẻ tham gia vào hoạt động. Từ đó chất lượng trên 
trẻ tăng lên rõ rệt, nhiều trẻ có năng khiếu kể chuyện diễn cảm, trẻ biết nhập vai bài soạn, linh hoạt sáng tạo nhiều cái mới trong giảng dạy, có ý thức phấn đấu 
vươn lên, có năng khiếu kể chuyện, đọc thơ, có trình độ chuyên môn và năng lực 
sư phạm vững vàng, đặc biệt tôi có một chút về năng khiếu hội họa nên cũng 
một phần nào thuận tiện trong việc thiết kế sa bàn, vẽ tranh ảnh.
 2. Khó khăn:
 Trường Mầm non Ngân Thủy là một trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, phần 
lớn các cháu là con em dân tộc Vân kiều, cuộc sống còn nhiều vất vã lam lũ, khó 
khăn, việc chăm sóc giáo dục trẻ còn nhiều hạn chế, nhất là việc phát triển ngôn 
ngữ của các cháu chưa được quan tâm đúng mức.
 Qua khảo sát tình hình đầu năm để nắm bắt được tâm lý, trình độ nhận thức
của trẻ đối với chất lượng môn học cho thấy:
 * Tình hình hoàn cảnh ảnh hưởng đến chất lượng môn học của trẻ trong
lớp:
 - Sỹ số lớp có 24 cháu, nhưng trong đó chỉ có 8 trẻ 4 - 5 tuổi, 16 trẻ 3 - 4
tuổi (trong đó có 7 trẻ dân tộc là người Vân kiều).
 - Có nhiều trẻ nói chớt, nói lắp, phát âm chưa rõ lời.
 - 7 cháu người dân tộc Vân Kiều chưa hiểu được tiếng việt.
 - Phần đa trẻ chưa học qua lớp nhà trẻ (24T- 36T)
 - Đa số trẻ thiếu sự quan tâm của gia đình.
 - 5 cháu sống với ông, bà nội ngoại.
 - Ở đây phần đa gia đình thuộc hộ nghèo, đói.
 * Trình độ nhận thức của trẻ:
 - Trẻ hiểu được cô kể chuyện lần một: 35% từ TB trở lên.
 - Trẻ hiểu được cô kể chuyện lần hai: 45% từ TB trở lên.
 - Trẻ đọc thơ, kể chuyện rõ ràng, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, tỷ lệ đạt
65%
 - Một khó khăn nữa là một lớp có 02 độ tuổi, 02 dân tộc cùng học nên dẫn
đến sự phát triển ngôn ngữ cũng như nhận thức của các cháu không đồng đều.
 Nhìn chung hoạt động của trẻ còn rất chậm, trẻ nhút nhát, sử dụng từ chưa 
đúng trong các giờ hoạt động làm quen văn học chưa hứng thú.
 Với tình hình thực tế của lớp tôi phụ trách như vậy, nên tôi rất băn khoăn lo
lắng suy nghĩ tìm tòi biện pháp “Làm thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ luyện những trẻ cá biệt. Phối hợp chính quyền, vận động phụ huynh để cùng 
thực hiện chương trình này.
 Ví dụ: Khi thực hiện chủ điểm “Bản thân”
 - Tuần 1: Chủ đề con “Cơ thể tôi”
 + Thứ 2: Trò chuyện với trẻ về các bộ phận trên cơ thể trẻ.
 Sinh hoạt chiều: Cho trẻ làm quen câu chuyện “Cậu bé mũi dài”
 + Thứ 3: Hoạt động ngoài trời: Tôi cho trẻ tìm hiểu nội dung câu chuyện.
 + Thứ 4: Hoạt động chung: Dạy trẻ tập kể chuyện “Cậu bé mũi dài”. 
 Hoạt động góc: Cho bé đóng kịch chuyện “Cậu bé mũi dài”
 Sinh hoạt chiều: Cho bé kể chuyện theo tranh “Cậu bé mũi dài”, bồi 
dưỡng trẻ yếu.
 Giờ đón trả trẻ: Tôi trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện, trò 
chuyện với phụ huynh để trao đổi về tình hình học tập của các cháu.
 3. Chuẩn bị các dụng cụ trực quan đầy đủ, đẹp, sáng tạo:
 Lứa tuổi mầm non, là lứa tuổi tư duy trực quan hình tượng, trẻ thường bị 
hấp dẫn bởi đồ chơi, hành động chơi, màu sắc, hình dạng, kích thước, âm thanh 
của đồ chơi đặc biệt là trẻ 3 - 4 tuổi. Khi cho trẻ làm quen với một câu chuyện 
thì việc sử dụng giáo cụ trực quan để lôi cuốn trẻ, gây sự chú ý của trẻ vào vấn 
đề, nhằm giúp trẻ dễ nhớ, dễ nắm bắt câu chuyện một cách thoải mái, đem lại 
hiệu quả cao. Khi trẻ đã nhớ câu chuyện, nhớ bài thơ thì khả năng diễn đạt ngôn 
ngữ mạch lạc hơn, diễn cảm hơn.
 4. Dạy trẻ ngôn ngữ đối thoại:
 Ngôn ngữ đối thoại là sản phẩm của cuộc thoại có ít nhất 02 người tham 
gia. Trẻ tham gia đối thoại là tham gia vào quá trình xây dựng nội dung và diễn 
biến cuộc thoại. Trẻ luôn được thay đổi từ vai nói sang vai nghe hoặc từ vai nghe 
sang vai nói. Đối thoại đòi hỏi sự thích ứng nhanh, khi đối thoại các yếu tố phi 
ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười được sử dụng nhiều. Vì vậy bản 
thân tôi dạy trẻ đối thoại là dạy trẻ biết nghe, biết nói trong giao tiếp, biết sử 
dụng các yếu tố phi ngôn ngữ một cách tự nhiên. Dạy trẻ ngôn ngữ đối thoại 
được tôi tổ chức ở các hình thức dưới đây:
 * Trò chuyện với trẻ: vật. Qua đó trẻ biết sử dụng vốn ngôn ngữ của mình vào cuộc thoại. Khi cho trẻ 
chơi, tôi chú ý quan sát khả năng diễn đạt của trẻ, đồng thời tập cho trẻ nói trọn 
câu, nói rõ từ, những từ mà trẻ chưa nói được tôi cho trẻ nhắc lại, có thể tôi đọc 
trước cho trẻ nghe sau đó cho trẻ đọc theo. Bên cạnh đó, tôi giải thích cho trẻ nói 
trọn câu thì mới có ý nghĩa trọn vẹn, còn nếu mình nói không trọn câu, lời nói bị 
ngắt quảng thì lời nói không có ý nghĩa và không còn hay nữa để tạo cho trẻ có ý 
thức tập nói, chơi trò chơi đóng kịch hay chơi các trò chơi đóng vai theo chủ đề 
thì trẻ nắm bắt và thể hiện được ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của các nhân vật, 
trẻ nhập vai vào nhân vật, trẻ biết phân biệt được giọng kể của các nhân vật 
trong truyện,
 Ví dụ: Khi cho trẻ đóng kịch chuyện “Bác Gấu đen và hai chú Thỏ”, tôi cho 
trẻ tự chọn vai, khi trẻ tham gia đóng kịch, tôi luôn chú ý quan sát giọng điệu, cử 
chỉ, sắc thái của từng nhân vật. Đặc biệt nhắc trẻ chú ý nói trọn câu, diễn đạt 
mạch lạc, trôi chảy, chú ý đến chính tả, ngữ pháp của trẻ.
 5. Dạy trẻ ngôn ngữ đọc thoại:
 Dạy ngôn ngữ độc thoại cho trẻ là cho trẻ giữ vai trò chủ đạo trong khi nói, 
trong khi lựa chọn nội dung, cách thức nói. Dạy trẻ ngôn ngữ độc thoại được tôi 
thể hiện ở các hình thức như: Kể chuyện theo tranh, dạy trẻ kể chuyện theo trí 
nhớ, dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
 * Dạy trẻ kể chuyện theo tranh:
 Thông qua các buổi sinh hoạt chiều, hoạt động ngoài trời tôi kể chuyện hoặc 
đọc thơ cho trẻ nghe, kết hợp với việc sử dụng hình ảnh trực quan, hệ thống câu 
hỏi. Sau đó yêu cầu trẻ kể lại cho cô và các bạn nghe. Trong khi thực hiện, tôi 
chú ý gọi những cháu có năng lực kể trước để làm trực quan cho những cháu kể 
sau. Trẻ kể được chuyện theo tranh thì giáo viên phải cung cấp các kiến thức khá 
kỷ càng về vấn đề mà trẻ sẻ trình bày. Những lúc ra chơi, tôi mở đĩa cho trẻ nghe 
để giúp trẻ nắm bắt được các giọng kể, cách diễn đạt câu chuyện, trẻ ghi nhớ và 
kể lại câu chuyện được tốt hơn,
 Ví dụ: Cho trẻ xem tranh “Tết nguyên đán”.
 Cô hỏi trẻ: Tranh vẽ gì? Con thấy có những gì? Bố đang làm gì? Mẹ đang
làm gì? Hoa đào có màu gì? Cây quất có màu gì? Cháu còn thấy gì nữa?.... huynh, tôi luôn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển 
ngôn ngữ cho trẻ. Mời phụ huynh dự những giờ dạy trẻ làm quen văn học từ đó 
nâng cao nhận thức của phụ huynh. Hiểu được ý nghĩa của môn học, phụ huynh 
sẻ tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm bồi dưỡng thêm cho trẻ ở nhà.
 Ở góc tuyên truyền “Những điều cha mẹ cần biết”, tôi dành riêng một mảng 
để tuyên truyền với phụ huynh những nội dung của giờ học. Trao đổi về đặc 
điểm ngôn ngữ của trẻ, những bài thơ, câu chuyện trong chủ đề, chủ điểm với 
phụ huynh. Để giúp trẻ phát triển tốt hơn nữa, tôi đã vận động phụ huynh mua 
thêm sách báo, truyện tranh đọc cho trẻ nghe ở nhà, tập cho trẻ kể chuyện, đọc 
thơ, đóng kịch để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được tốt hơn.
 V. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
 Qua quá trình thực hiện và áp dụng biện pháp trên, tôi đã thu được những
kết quả đáng phấn khởi so với đầu năm học.
 * Đối với trẻ: Chất lượng môn làm quen văn học tăng lên rõ rệt: Tỷ lệ khá 
giỏi đạt 85%, trẻ trả lời rõ ràng, mạch lạc, nói trọn câu. Nhiều trẻ biết kể 
chuyện diễn cảm, biết thể hiện điệu bộ cử chỉ khi kể chuyện, đọc thơ, 75% trẻ 
biết kể chuyện sáng tạo, 90% trẻ hiểu được nội dung câu chuyện.
 Trẻ thích chơi đóng kịch, đóng vai theo chủ đề, trẻ nhập vai, thể hiện vai
các nhân vật trong câu chuyện rất tốt.
 * Đối với giáo viên: Giáo viên đã nắm chắc phương pháp, tự tin, linh hoạt 
hơn trong các tiết dạy. Bản thân cũng đã biết lập kế hoạch thực hiện phù hợp với 
nhóm tuổi mình phụ trách, nắm vững được đặc điểm tâm lý, tình hình của từng 
trẻ để từ đó đưa ra những biện pháp có phương hướng giáo dục trẻ thích hợp 
hơn.
 * Đối với phụ huynh: Từ những kết quả đạt được trên, bản thân tôi đã tạo 
được lòng tin với phụ huynh, làm cho phụ huynh càng tin tưởng, yên tâm đưa 
con đến trường. Qua đó bản thân cũng đã nâng cao nhận thức cho phụ huynh về 
việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là rất cần thiết. Phụ huynh rất quan 
tâm, phấn khởi, thường xuyên chăm lo, trao đổi hỏi thăm học lực của con mình.
 VI. BÀI HỌC KINH NGHIỆM. nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển 
nhân cách cho trẻ. Vì vậy khi gần trẻ người lớn phải có ý thức nói năng mẫu 
mực, không nói lắp, nói ngọng hay nhái giọng, lời nói phải có văn hóa, lịch thiệp 
để làm gương cho trẻ noi theo.
 Từ thực tế lớp tôi phụ trách với những khó khăn mà bản thân tôi gặp phải, 
tôi đưa ra những biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong việc phát triển 
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Mong rằng những biện pháp này sẻ áp dụng hiệu quả 
hơn khi được các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp góp ý, bổ sung thêm và tích cực 
đổi mới trong quá trình vận dụng để giúp trẻ phát triển toàn diện đáp ứng với yêu 
cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG Ngân Thủy, ngày 20 tháng 05 năm 2012
 NGƯỜI VIẾT
 Bùi Thị Minh Châu
 XÁC NHẬN CỦA HĐKH PHÒNG GIÁO DỤC
.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_lam_the_nao_de_giup_tre_3_4_tuoi_phat.docx