Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi - Trường Mầm non Cao An

doc 31 trang skkn 08/04/2024 1950
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi - Trường Mầm non Cao An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi - Trường Mầm non Cao An

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi - Trường Mầm non Cao An
 PHẦN 1: THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 
tháng tuổi 
 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phát triển ngôn ngữ 
 3. Tác giả: 
 Họ và tên: Vũ Thị Hà Thu Nam (nữ): Nữ
 Ngày tháng/năm sinh: 06/10/1991
 Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non.
 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Cao An.
 Điện thoại: 0968.303.992
 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không có
 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: 
 Tên đơn vị: Trường Mầm Non Cao An.
 Địa chỉ: Cao An – Cẩm Giàng – Hải Dương.
 Điện thoại: 0302.3782.822
 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: “Trình độ chuyên môn 
của giáo viên, trẻ đúng độ tuổi, cơ sở vật chất”.
 8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9/2016 đến tháng 2/2017
HỌ TÊN TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ 
(Ký, ghi rõ họ tên) ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
 Vũ Thị Hà Thu.
 XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT
 (đối với trường mầm non, tiểu học, THCS)
 1 - Giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn trở lên, có đầy đủ kiến thức 
nắm vững phương pháp, thường xuyên đầu tư phương pháp dạy học linh hoạt, 
sáng tạo trong các tiết dạy trẻ, có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị về đồ 
dùng, đồ chơi,
- Trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển bình thường về thể chất và tinh thần
 Thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến từ thời điểm tháng 9/2016 đến 
tháng 2/2017. tại lớp mẫu giáo 24-36 tháng tuổi mà tôi đang được phân công.
 Đối tượng áp dụng sáng kiến:
 Trẻ 24-36 tháng tuổi.
 3. Nội dung sáng kiến. 
 Trong sáng kiến của mình tôi đề xuất 4 Biện pháp sau:
 4.1. Biện pháp 1: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
 4.1.1 Giờ đón trẻ:
 4.1.2 Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:
 4.1.3 Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:
 4.2. Biện pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác:
 4.2.1 Thông qua giờ nhận biết tập nói:
 4.2.2 Thông qua giờ thơ, truyện:
 4.2.3 Thông qua giờ âm nhạc:
 4.2.4 Thông qua giờ vận động:
 4.3. Biện pháp 3: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các trò chơi.
 4.3.1 Trò chơi 1: “ Cái gì? Dùng để làm gì?
 4.3.2 Trò chơi 2: “ Con muỗi ”
 4.3.3 Trò chơi 3: “Trò chuyện về các PTGT quen thuộc”.
 4.3.4 Trò chơi 4: “Trò chuyện cùng cô ” 
 4.4. Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh.
 + Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: 
- Các biện pháp tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo như: Tôi luôn 
thay đổi các hình thức gây hứng thú đối với trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở 
mọi hoạt động. Muốn thực hiện tốt điều này đòi hỏi giáo viên phải tích cực 
 3 chương trình, thông qua các hoạt động giáo viên rèn cho trẻ có những kỹ năng 
cần thiết, cơ bản nhất để trẻ phát triển một cách toàn diện.
 Kích thích và tạo cơ hội cho trẻ phát triển khả năng giao tiếp, đồng thời trẻ 
mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động. 
 Phụ huynh đã hiểu hơn về tầm quan trọng của việc dạy ngôn ngữ cho trẻ 
từ đó đã quan tâm hơn và tích cực kết hợp với giáo viên để có biện pháp dạy 
học cho trẻ.
 5. Đề xuất khuyến nghị.
 5.1. Đối với nhà trường: 
 Tạo mọi điều kiện hỗ trợ cơ sở vật chất, mua sắm đồ dùng, đồ chơi.
 Bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, tổ chức các hội thi giáo viên giỏi, 
các buổi chuyên đề, làm đồ dùng đồ chơi. Cần mở những lớp bồi dưỡng, tổ 
chức chuyên đề cho giáo viên về việc dạy phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 5.2. Đối với cấp phòng, sở giáo dục: 
 Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua các lớp 
bồi dưỡng chuyên môn. 
 Cung cấp các tài liệu có nội dung về các phương pháp dạy phát triển ngôn 
ngữ cho trẻ, đặc biệt là kĩ năng giao tiếp để giáo viên học tập và nghiên cứu để 
tham khảo và áp dụng vào trong thực tế dạy trẻ hàng ngày được tốt hơn.
 5 Đặc biệt đối với trẻ 24- 36 tháng cần giúp trẻ phát triển mở rộng các loại 
vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ 
về những sự vật, hiện tượng, hình ảnh. mà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hành 
ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình 
thành ngôn ngữ cho trẻ .
 3. Thực trạng của vấn đề.
 3.1. Đặc điểm chung của trường, của lớp:
 Một việc làm không thể thiếu khi thực hiện đề tài đó là “điều tra thực 
trạng” vì nó giúp cho tôi thấy được những ưu điểm và hạn chế của đối tượng 
nghiên cứu khi áp dụng đề tài để từ đó giúp tôi tìm ra được biện pháp thực hiện 
có hiệu quả tốt nhất.
 Bản thân tôi được phân công dạy lớp 24-36 tháng tuổi với số trẻ là: 25 
cháu (Trong đó có 11 bé gái và 14 bé trai), đa số các cháu là con nông dân lên 
sự quan tâm của cha mẹ còn hạn chế.
 Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã gặp những thuận lợi và khó 
khăn sau:
 3.2 Thuận lợi:
- Lớp được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu, tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật 
chất cũng như đồ dùng học tập của các cháu, ngoài ra nhà trường còn động viên 
đối với sự sáng tạo của giáo viên, khích lệ giáo viên ứng dụng công nghệ thông 
tin vào các hoạt động giáo dục trẻ.
- Ban Giám Hiệu và tổ chuyên môn thường xuyên dự giờ thăm lớp bồi dưỡng 
cho giáo viên về chuyên môn.
- Trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi.
- Đa số trẻ đi học rất đều.
- 30% trẻ có khả năng phát âm rõ.
 3.3 Khó khăn:
- Lớp có diện tích còn hẹp, đông trẻ.
 7 STT Nội dung khảo sát Số trẻ Tỷ lệ %
 Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát 
 1 15 60%
 âm
 2 Vốn từ 13 52%
 3 Khả năng nói đúng ngữ pháp 15 60%
 4 Khả năng giao tiếp 16 64%
- Qua khảo sát, tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ của trẻ không đồng đều, 
nhiều trẻ còn yếu và trung bình. Vậy để nâng cao phát triển ngôn ngữ của trẻ, 
trong giờ học tôi luôn quan tâm đến các cháu trung bình, yếu nhiều hơn. Động 
viên kịp thời để tạo hứng thú cho trẻ.
 Dựa trên những số lượng điều tra trên, để thực hiện tốt đề tài này tôi đã áp 
dụng một số biện pháp sau:
 4. Biện pháp đã thực hiện.
 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và 
phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn 
ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá giao tiếp lời nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là 
phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ 
mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập 
vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp 
dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động 
sau:
 4.1. Biện pháp 1: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
 4.1.1 Giờ đón trẻ:
 Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp 
cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình 
thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, 
 9 + Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi, mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em 
búp bê)
- Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu 
giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của 
con người.
 VD2: Trong góc “Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Giao thông” bằng đồ 
dùng tự tạo đó chính là những chiếc ô tô đã đục sẵn lỗ và những chiếc ô tô, 
máy bay chưa có bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tôi sẽ 
hỏi trẻ:
 + Minh ơi, con đang xâu gì vậy? ( Con đang xâu ô tô ạ)
 + Con xâu ô tô bằng gì đấy? (Con xâu bằng dây xâu ạ)
 + Khôi ơi, ô tô này đã đi được chưa hả con? ( Chưa đi được ạ)
 + Muốn ô tô đi được phải làm thế nào? ( Lắp thêm bánh xe ạ)
 + Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! 
(Vâng ạ)
 VD3: Ở góc “ Bé khéo tay” cũng ở chủ đề “Giao thông ” bằng miếng xốp 
thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ô tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ được 
in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một cách 
nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tôi ân cần 
đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ:
 + Con đang làm gì vậy? (Con in hình ô tô ạ)
 + Ô tô của con có màu gì? (Màu đỏ ạ)
 + Đây là phương tiện gì con có biết không? (Xe đạp ạ)
 + Xe đạp này có màu gì? (Màu vàng ạ) 
 + Ô tô và xe đạp đi ở đâu hả con? (Trên đường ạ)
- Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những 
rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 4.1.3 Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:
 Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để 
trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập 
 11 trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn nhằm phát huy tính 
tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
 Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ 
thống câu hỏi:
+ Đây là con gì? (Con cá ạ)
+ Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? 
(Cái đuôi ạ)
+ Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở 
trên đầu con cá)
+ Đố các bạn biết cá sống ở đâu? (Sống ở dưới nước)
+ Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? (Có vẩy)
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả 
câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ.
 VD2 : Bài nhận biết “ Ô tô”
Khi vào bài tôi đặt câu đố: 
 “ Xe gì bốn bánh
 Chạy ở trên đường
 Còi kêu bim bim 
 Chở hàng chở khách” (Ô tô)
Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi: 
+ Xe gì đây? (Ô tô ạ)
+ Ô tô có màu gì? ( Màu đỏ ạ)
+ Ô tô đi ở đâu? (Ô tô đi ở trên đường ạ)
+ Ô tô dùng để làm gì? (Dùng để đi ạ)
+ Còi ô tô kêu như thế nào? ( bíp bíp)
+ Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời)
 Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời 
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ 
thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
 4.2.2 Thông qua giờ thơ, truyện:
 13 - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân 
vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó 
khăn.
 VD2: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng 
quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được 
nhìn, sờ, ngửi và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “sắp vòng quanh”.
- Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ 
vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có 
màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp 
trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già 
ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?( Xanh man mát)
+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ)
+ Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ 
mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
 - Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp 
cũng vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú 
trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
 VD3: Trong câu truyện “Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, 
sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay 
nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh 
dạn hơn khi trả lời.
+ Trẻ hay nói ô tô - ô chô.
+ Trẻ nói Thỏ ngoan - Thỏ ngan
+ Bác Gấu - Bác ấu
+ Con Cáo - Con áo
- Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho 
trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
 15

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_c.doc