Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi với môi trường ở trường mầm non
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi với môi trường ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi với môi trường ở trường mầm non
1 BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Trẻ em là mầm sống, là vận mệnh tươi sáng của dân tộc. Giáo dục trẻ em luôn là một trọng trách cao cả đối với Đảng và nhà nước ta. Mang trên mình sứ mạng cao cả của một người giáo viên là mang trọng trách cao cả của dân tộc. Đặc biệt là đối với những người giáo viên mầm non chúng ta, những người có nhiệm vụ gieo hạt, uốn nắn những mầm xanh ngay từ những ngày đầu đến trường. Để thực hiện được nhiệm vụ cao cả ấy người giáo viên luôn phải tìm tòi học hỏi, tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tận tâm tận lực cho công tác chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ trên hết là người giáo viên phải có cả tâm lẫn đức. Đối với trẻ mầm non, việc chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ những ngày đầu đến trường phải thật nhẹ nhàng phải mang đến cho trẻ một tâm thế thật thoải mái, học mà chơi, chơi mà học, trẻ phải thật yêu thích trường lớp, từ đó tạo tiền đề cho trẻ phát triển ở những bậc học tiếp theo. Khi đã mang lại kết quả như mong đợi thì việc chăm sóc giáo dục trẻ sẽ đạt được những thành công nhất định. Việc giúp trẻ sớm thích nghi với trường lớp, với các cô là một vấn đề vô cùng quan trọng. Mỗi năm đối tượng các trẻ khác nhau và cách làm quen với trẻ cũng phải khác nhau. Phụ huynh thì thường hay so sánh giữa lớp nhỏ và lớp lớn, giữa cháu cũ với cháu mới và lo lắng không biết cô đối xử với các con có tốt không? Làm sao để trẻ sớm thích nghi với trường lớp mầm non? Vấn đề giúp trẻ sớm hoà nhập vào môi trường mới là việc rất quan trọng bởi khi đến lớp nếu trẻ ngoan hứng thú thì mọi hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ cô truyền đạt thì trẻ mói lĩnh hội và phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần khi tới trường mầm non. Hiện nay khi thực hiện chương trình mầm non mới điều khó khăn nhất đối với trẻ chưa có thói quen nề nếp đặc biệt là trẻ mới đến trường lớp còn thụ động, cụ thể như ở lớp nhà trẻ tôi phụ trách, các cháu lứa tuổi còn nhỏ, có những trẻ đi học rồi còn non tháng, dễ bị tổn thương về tâm lý vì trẻ chưa tách rời bố, mẹ, gia đình nên khi mới nhập học , nhập trường trẻ thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né và có những trẻ không chấp nhận sự giúp đỡ cuả cô thậm chí còn la khóc không ăn, không ngủ, không tham gia vào các hoạt động. Để trẻ thích nghi với môi trường ở trường mầm non là một vấn đề rất khó. Bản thân tôi là một giáo viên dạy lứa tuổi 24-36 tháng lâu năm. Tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để trẻ thích nghi thật sớm với trường mầm non. 3 - Bản thân tôi được sự quan tâm tận tình, chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường. - Mặt khác, bản thân tôi được sống trong tập thể chị em đoàn kết, yêu thương quan tâm giúp đỡ nhau trong cuộc sống cũng như trong công việc, cùng nhau học hỏi trao đổi kinh nghiệm Hơn nữa bản thân tôi cũng có thế mạnh của mình ham tìm tòi học hỏi, thích khám phá những cái hay, cái lạ, say sưa nghiên cứu. - Giáo viên trong lớp có trình độ chuẩn và trên chuẩn. Các cô là giáo viên trẻ cịu khó tìm tòi đưa nhiều hình thức mới vào trọng giảng dạy. - Các cô trong lớp đều sử dụng công nghệ thông tin thành thạo nên cũng tạo điều kiện thuận lợi trong giảng dạy trẻ và tạo hứng thú cho trẻ. - Lớp có diện tích khá rộng rãi, thoáng mát. Được trang trí có kế hoạch, đầy đủ các góc sân chơi rộng, bằng phẳng, có cây xanh bóng mát. - Đa số trẻ đi học rất đều. - Đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. - Phụ huynh trẻ, nhiệt tình và có kiến thức về việc chăm sóc cũng như giáo dục các con theo phương pháp mới giúp trẻ tự lập. điều đó tạo điều kiện thuận lợi trong việc các con đến trường sẽ sớm thích nghi với môi trường mới. * Khó khăn: - Đầu năm lớp tôi đa số là trẻ mới nên các con rất bỡ ngỡ và rụt rè. - Một số trẻ mới còn non tháng, trẻ chưa hòa nhập với trẻ cũ, còn hay khóc, chưa có nề nếp thói quen, trẻ chưa say mê, hào hứng đi học, đặc biệt là đầu năm học, trẻ chưa tập trung chú ý nghe cô mà còn hay khóc, hiệu quả nề nếp còn thấp. - Vì là lứa tuổi nhà trẻ nên trẻ thường có hiện tượng “khóc dây chuyền”. Chỉ cần 1 trẻ khóc là các trẻ khác dù đã nín nhưng sẽ nhớ ra và khóc theo. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho giáo viên. - Mặc dù là giáo viên trẻ nhiệt huyết nhưng kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ ở lứa tuổi 24-36 còn hạn chế. * Khảo sát thực tế trẻ của lớp nhà trẻ A2 -Trước khi thực hiện đề tài tôi đã khảo sát trẻ để lựa chọn những biện pháp phù hợp đưa vào thực hiện. Bảng khảo sát đầu năm về trẻ khả năng thích nghi với môi trường (Khảo sát thực nghiệm trên tổng số 20 trẻ) 5 vệ sinh, xếp hàng, thu dọn đồ chơi, ngồi vào chỗ trong giờ hoạt động hay trong giờ ăn dưới hình thức luyện tập, thông qua câu chuyện, làm mẫu của cô. Và kết quả mà tôi thu được đó là các con khi đến lớp thường tự nhiên thích và theo cô vào trong lớp hơn bố mẹ. Hễ đến lớp mà thấy cô đó thì yên tâm đi vào và trẻ sẽ không khóc. Chính vì vậy khi chia tay các con vào các buổi chiều thì các con rất lưu luyến với cô. * Biện pháp 2: Tạo môi trường lớp học gần gũi, thân thiện Trong những ngày đầu bé mới đến trường, tôi nghĩ trường lớp phải thật đẹp, thật hấp dẫn và thu hút trẻ. Vì vậy để chuẩn bị đón trẻ, tôi cùng các bạn trong lớp sắp xếp các góc chơi với đầy đủ các loại đồ chơi khác nhau. Nhất là các loại đồ chơi chuyển động (cầu trượt, xích đu, bập bênh, xe ô tô, máy bay nhiều loại ), tạo ra âm thanh (như con chút chit, kèn, xúc xắc ) đồ chơi phát triển trí tuệ (đồ chơi lắp ghép, xếp hình ) và một số thú bông, búp bê, các loại bóng. Đồ chơi phải đủ để mỗi cháu có ít nhất một món, không tranh dành nhau. Các trò chơi góc giúp trẻ vui vẻ hòa nhập với môi trường lớp học. * Biện pháp 3: Tận dụng môi trường thiên nhiên, chơi ngoài sân trường: Được lợi thế là có một sân trường rộng để các cháu chơi đùa, đi dạo. Mỗi năm học được cải tạo và sắp xếp lại, trang bị thêm nhiều cây xanh . tạo được một sân chơi thoáng mát, sạch, đẹp thu hút sự hứng thú của trẻ và phụ huynh. Đầu năm tôi sợ cháu khóc thường cho các cháu ở trong lớp, đóng cửa lại không cho các cháu ra chơi ngoài sân vì sợ các cháu gặp người quen hay gặp người lớn trẻ sẽ rất dễ khóc. Nhưng tôi thiết nghĩ : Tuy phòng, lớp tôi cũng khá rộng rãi nhưng có thể các cháu vẫn cảm thấy bị ức chế và nỗi sợ hãi càng tăng. Tại sao mình không cho các bé ra sân trường đi dạo dưới những tán cây để hít thở không khí trong lành? Chính không khí này sẽ giúp bé thoải mái, tâm lý vui vẻ. Khi được ra sân các cháu thơ thẩn đi theo tôi ngắm nhìn xung quanh hoặc chạy nhảy vui đùa. Đối với những cháu còn lạ, ngơ ngác và khóc thì tôi thường dẫn cháu đi bên cạnh, vỗ về âu yếm vuốt ve để các cháu cảm thấy bớt cô đơn. Dần dần các cháu bị tiếng nói, tiếng hát, đọc thơ và kể chuyện của tôi thu hút. Các cháu không khóc nữa mà hòa cùng vào các bạn tham gia các trò chơi “Thổi bóng” “Bắt bướm” thậm chí “quên” cả mẹ đang đi ở phía sau. - Ngoài việc tạo được không gian thoáng đãng, khi ra ngoài trời, các con có thể thỏa sức khám phá thiên nhiên. Thỏa mãn trí tò mò của trẻ về một môi trường mới đầy thú vị. 7 hứng mà tôi nghĩ trẻ đã cảm nhận được sự yêu thương của các cô dành cho các con. Và với biện pháp này, trẻ ở lớp tôi đã có những kết quả rất tích cực. Trẻ rất vui vẻ khi tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn. Như tôi đã nói, tâm lý trẻ rất nhạy cảm, tò mò ham hiểu biết. Nên mọi thứ mới lạ đều hấp dẫn, thu hút trẻ. Từ đó tạo tâm lí phấn khởi, hào hứng cho trẻ trong mỗi ngày đến lớp. Cảm giác lạ lẫm ban đầu sẽ mau chóng quên đi. * Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh học sinh Trẻ ở lớp tôi thì đa phần toàn là cháu mới đi học lần đầu. Đối với các cháu đã đi học, ngay từ ngày đầu nhận danh sách lớp tôi thường trao đổi ngay bố mẹ của trẻ để tôi có thể nắm được ngay thói quen, đặc điểm sinh lý, sức khỏe của trẻ để có biện pháp tác động phù hợp. Những ngày đầu mới đi học thường có các ông bà hoặc bố mẹ đi theo, lúc đó trao đổi với phụ huynh về tính cách của trẻ xong tôi tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi dân gian, hát dân ca . Khi trẻ bắt đầu bị tôi thu hút thì tôi sẽ làm quen, trò chuyện với trẻ trong vai trò “cô giáo”. - Đối với các cháu lần đầu tiên đi học, ngoài việc trao đổi với phụ huynh về trẻ, tôi cũng đã trao đổi với các anh chị phụ huynh về nội quy của nhóm lớp như: Phụ huynh nên cho bé đi học đều, đúng giờ, đồng thời đề nghị phụ huynh kết hợp với Cô trong việc rèn nề nếp và thói quen lễ phép. Cô và bố mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo. Ví dụ: - Cô hướng dẫn trẻ cất đồ chơi vào nơi quy định, phụ huynh đặt trước và giúp trẻ đặt đồ dùng của bé. - Khi trẻ đến lớp tôi khoanh tay và nói cô chào con và nhắc trẻ chào lại tôi khi đó phụ huynh cũng nhắc con của mình khoanh tay và chào cô đi nào cứ như vậy trẻ sẽ nhìn và bắt chước theo. - Hay những lúc sinh hoạt tập thể ngồi vòng tròn.Trẻ ngồi cùng tôi chơi trò “Đoán tên”. Tôi cùng giúp bé nói tên của mình. - Khi trẻ chơi xong, tôi cùng bé cất dọn đồ chơi vào các góc. - Khi tôi đưa một món đồ chơi mà trẻ thích, tôi thường nói: “ Cô cho con này”, trẻ nhìn tôi với ánh mắt dò xét và được mẹ tiếp thêm: “ Ồ! Con cảm ơn Cô đi, Cô yêu con mà!” những lời của mẹ và hành động của Cô đã làm cho bé hết sức an tâm và cảm thấy thoải mái tinh thần trong những ngày đầu bé mới đến trường. Tôi thường trao đổi với phụ huynh về cách rửa tay theo quy trình 6 bước theo quy cách mà tôi coi đó là biện pháp tốt nhất chăm sóc cho bé. 9 chuyên môn, kịp thời cập nhập các thông tin làm phong phú tâm hồn và nâng cao chất lượng. Phải biết xử lý tốt các tình huống sư phạm, luôn tìm cách tạo tiền đề cho trẻ để trẻ có cơ hội bộc lộ được thực hiện sở thích của mình. III. HỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI 1. Hiệu quả kinh tế Như vậy, qua một năm đi sâu và thực hiện nghiên cứu tài liệu, kinh nghiêm của bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả và tiến hành đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi thích nghi với môi trường ở trường mầm non” Tôi đã tìm ra những biện pháp tích cực phù hợp để nâng việc phát triển tình cảm xã hội và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, giúp trẻ vui vẻ thoải mái khi đến lớp. Bản thân tôi cùng với các bậc phụ huynh trong lớp sưu tầm đồ dùng đồ chơi, xã hội hóa để mua thêm nhiều dụng cụ, băng đĩa phục vụ cho hoạt động rèn kỹ năng sống cho trẻ. Hiệu quả kinh tế làm lợi trên 75.000.000 đồng trên năm 2. Hiệu quả xã hội * Đối với trẻ: Sau một năm áp dụng những biện pháp trên. Trẻ đã đạt được những kết quả sau. - Trẻ mạnh mạnh dạn, tự tin, vui vẻ khi đến lớp. - Đến lớp trẻ chảo cô, chào bố mẹ, tự cất đồ dùng cá nhân vào nơi quy định. - Giáo viên có kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ lứa tuổi nhà trẻ 24-36 làm cho phụ huynh yên tâm tin tưởng. Ngoài ra kết quả của trẻ còn được thể hiện qua bảng khảo sát sau. (Khảo sát thực nghiệm trên tổng số 26 trẻ) Đầu năm Cuối năm (Khi chưa áp dụng (Sau khi áp dụng Tiêu chí đánh giá SKKN) SKKN) Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Trẻ có khả năng thích nghi 6/20 trẻ = 14/20 trẻ 25/26 trẻ 1/26 trẻ = môi trường. 30% = 70% = 96% 4% Trẻ tích cực , mạnh dạn, 8/20 trẻ = 12/20 trẻ 24/26 trẻ 2/26 trẻ = tự tin trong các hoạt động 40% = 60% = 92% 8% Trẻ có nề nếp, hứng thú chơi 8/20 trẻ = 12/20 trẻ 24/26 trẻ 2/26 trẻ = các trò chơi. 40% = 60% = 92% 8% 11 CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN ( Xác nhận) (Ký tên, đóng dấu) XÁC NHẬN PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIAO THỦY (Ký tên, đóng dấu)
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang.doc