Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ - Trường Mầm non Sơn Ca

docx 25 trang skkn 05/04/2024 1990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ - Trường Mầm non Sơn Ca", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ - Trường Mầm non Sơn Ca

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ - Trường Mầm non Sơn Ca
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ TAM KỲ 
 TRƯỜNG MẦM NON SƠN CA
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 24 – 36 THÁNG TUỔI 
 PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
 Họ và tên : Võ Thị Ngâu
 Chức vụ : Tổ trưởng chuyên môn 
 Tổ : Nhà trẻ
 Năm học 2014 - 2015
 0 của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại từ khác như: tính từ, đại từ, 
trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở độ tuổi này 
không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu 
nghĩa các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên 
mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, 
trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác, trẻ nhận thức về công cụ ngữ 
pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế, chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng 
các loại từ trong các từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng con đường giao tiếp 
thường xuyên, có hệ thống của trẻ với người lớn về những sự vật, sự việc trẻ được 
nhìn thấy trong sinh hoạt hằng ngày. Chính vì vậy tôi chọn đề tài : “ Một số biện 
pháp giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ” làm đề tài nghiên cứu tại lớp 
24-36 tháng tuổi trường Mầm non Sơn Ca.
3. Cơ sở lý luận:
 Chương trình giáo dục Mầm non theo thông tư: 17/2009/TT-BGDĐT ngày 
25 tháng 7 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu: Mục tiêu của 
giáo dục Mầm non là giúp trẻ em phát triển toàn diện trên 5 lĩnh vực: Phát triển thể 
chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát triển thẫm mỹ, phát triển tình 
cảm- xã hội. Hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp 
một, hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và 
phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, 
khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập 
ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời
 Căn cứ công văn số: 632/PGDĐT-GDMN ngày 3 tháng 9 năm 2014 của 
Phòng Gíao dục và Đào tạo Thành phố Tam Kỳ về việc hướng dẫn nhiệm vụ năm 
học 2014- 2015
 Căn cứ Kế hoạch nhiệm vụ năm học: 2014- 2015 số 73 /KH-SC ngày 20 
tháng 9 năm 2014 Trường Mầm non Sơn Ca
 Năm thứ ba là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển ngôn ngữ của 
trẻ. “ Trẻ lên ba cả nhà học nói”, điều này thật đúng. Do đặc điểm và nhu cầu giao 
tiếp mà giai đoạn ba tuổi, lời nói của trẻ phát triển với tốc độ mạnh mẽ nhất. Chính
 2 a) Thuận lợi:
 - Lớp được chia theo đúng độ tuổi qui định
 - Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường
 - Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú
 - Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường 
xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do Sở, Phòng tổ chức
 - Trình độ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn
 b) Khó khăn:
 - Lần đầu tiên đến lớp nên trẻ còn khóc nhiều
 - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết khối lượng các âm tiếp thu cũng như 
trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn, nên trẻ bỏ bớt từ, bỏ bớt âm khi nói.
 - Đa số phụ huynh đều bận công việc nên ít có thời gian trò chuyện với trẻ
 - Trẻ được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu trẻ cần mà không cần phải dùng lời để 
yêu cầu hoặc xin, nên trẻ chậm nói
 Điều trăn trở nhất đối với tôi lúc này là làm sao để cho những cháu chậm nói, 
phát âm chưa rõ lời: nói được những từ đơn giản như các bạn cùng độ tuổi, đồng 
thời phát triển được khả năng phát âm, hiểu ý nghĩa lời nói, khả năng khái quát và 
chức năng giao tiếp ngôn ngữ được chuẩn mực ở các trẻ khác.
Tôi tiến hành khảo sát trẻ trong lớp, kết quả như sau:
 Đạt Chưa đạt
 Tiêu chí Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
 Khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và 16/36 44,4% 20/36 55,6%
 phát âm
 Vốn từ 12/36 33,3% 24/36 66,7%
 Khả năng nói đúng ngữ pháp 12/36 33,3% 24/36 66,7%
 Khả năng giao tiếp 10/36 27,7% 26/36 72,3%
 5. Nội dung nghiên cứu:
Biện pháp 1: Chú ý đến cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời
 4 toàn không phát âm (các nguyên âm đôi: ie, uô, ươ ; vần có âm đệm u; các phụ âm: 
s, x, kh...)
 Ví dụ: Bé hông (không) thích ăn cả (quả) chối ( chuối)
Các mẫu phát âm luôn đặt trong hoạt động ngôn ngữ giao tiếp, có những mẫu mô 
phỏng âm thanh khác nhau để trẻ luyện phát âm. Chẳng hạn ở góc chơi học tập, trò 
chơi “Gọi hình”. Mỗi cháu một bộ tranh lôtô “Phương tiện giao thông đường bộ”, 
một cháu phát âm rõ chọn một phương tiện giao thông đưa lên và gọi to “xe máy”, 
sau đó tất cả cùng cầm tranh “xe máy” đưa lên và gọi to “ xe máy” rồi xếp tranh 
“xe máy” ra tấm bìa, tiếp tục trẻ khác cầm tranh “ xe đạp” đưa lên , các bạn còn lại 
tìm tranh “ xe đạp” đưa lên và gọi từ “ xe đạp” rồi xếp xuống tấm bìa. Trò chơi cứ 
tiếp tục, các cháu phát âm được các từ: ô tô, xe đạp, ô tô tải, ô tô khách, tàu hỏa, xe 
xích lô..., cũng với cách chơi này các cháu được chơi ở các chủ đề khác như: cây 
và những bông hoa đẹp, những con vật đáng yêu, tết và mùa xuân trong năm học ( 
hình ảnh 2)
 Dần dần, tôi tập cho những cháu, chậm nói, phát âm chưa rõ lời này nói 
những câu dài hơn trong các trò chơi khác.
 Ví dụ: trong trò chơi phân vai: “Tập làm bác tài xế”. Tôi cho một cháu phát 
âm rõ lời đóng vai: Bác tài xế, một cháu phát âm rõ lời đóng vai: Nguời phụ xe, 
các cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời đóng vai hành khách. Bác tài xế hai tay 
giả cầm vô lăng chạy quanh lớp, miệng kêu “pim, pim”, người phụ xe ôm eo bác 
tài chạy sau, đến chỗ hành khách thì bác tài phanh lại, miệng kêu: “kít”, người phụ 
xe bước xuống hỏi: “Các bạn có đi xe buýt không?”
 Tôi tập cho những cháu chậm nói, phát âm chưa rõ trả lời: “cho tôi đi xe 
buýt với”.
 Tôi tập từng cháu phát âm, cháu nào nói được theo cô thì lần lượt lên xe, thế 
là tất cả các cháu đều cố gắng nói theo cô, và bước lên xe ôm eo bạn. Xe chạy tất 
cả các cháu cùng kêu “pim, pim”. Bằng nhiều hình thức tôi luôn tạo cơ hội cho 
những cháu chậm nói, phát âm chưa rõ lời được nói nhiều.
 Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động học
 2.1. Thông qua hoạt động “ Nhận biết tập nói”
 6 Ông thợ nào thua 
 Về bú tí mẹ
 Hai trẻ ngồi đối mặt nhau, chạm chân vào nhau, nắm tay nhau vừa đọc, vừa 
làm động tác kéo cưa, kéo qua kéo lại. Trẻ rất thích thú trẻ đang học mà như đang 
chơi vậy.
 Hoặc bài “Dung dăng dung dẻ”
 Dung dăng dung dẻ 
 Dắt trẻ đi chơi
 Đến cổng nhà trời 
 Lạy cậu lạy mợ 
 Cho cháu về quê 
 Cho dê đi học 
 Cho cóc ở nhà 
 Cho gà bới bếp
 Ù à ù ụp
 Ngồi thụp xuống đây
 Trẻ nắm tay nhau vừa đi vừa dung dăng theo nhịp đọc của bài đồng dao, đến 
câu cuối “Ngồi thụp xuống đây” thì tất cả trẻ ngồi xuống đất. Khi trẻ chơi cô chú ý 
sửa sai phát âm cho trẻ. ( hình ảnh 3)
 Bên cạnh hoạt động làm quen các bài thơ, đồng dao, ca dao, giờ kể chuyện là 
hoạt động thu hút trẻ vào nội dung câu chuyện, với đồ dùng sinh động, tranh 
truyện, rối tay, đặc biệt là một số hình ảnh động của các nhân vật trong giáo án 
điện tử cùng với lời kể diễn cảm của cô giáo đã gây hứng thú cho trẻ ngay từ đầu 
tiết học.Ví dụ: Câu chuyện: Cây táo
 Tôi chuẩn bị:
 - Rối tay các nhân vật: Ông, bé, gà trống, bướm, mặt trời, cây táo.
 - Mũ các nhân vật trên để trẻ tham gia diễn kịch
 - Giáo án điện tử 
 Tôi tiến hành như sau:
 Tôi kể chuyện lần một, cho trẻ xem qua màn hình.
 8 với nội dung câu chuyện. Đây cũng là cơ hội để ngôn ngữ giao tiếp được phát triển 
( hình ảnh 4)
2.3.Qua hoạt động âm nhạc
 Ở hoạt động âm nhạc trẻ được tiếp xúc với nhiều loại nhạc cụ như: xắc xô, 
trống, phách tre, sáo... và các vật dụng: mũ múa, khăn voan, quạt giấy... , trẻ được 
học những giai điệu vui tươi kết hợp với các hình thức hoạt động (vận động theo 
nhạc một cách nhịp nhàng, vận động minh hoa theo lời ca). Để làm được như vậy 
là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng, đặc biệt là sự giao tiếp bằng ngôn 
ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm 
nhạc
 Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ biết sử dụng những hình ảnh 
đẹp của bài hát
 Ví dụ: Hát và vận động bài “Khám tay”, trẻ biết sử dụng động tác minh hoạ 
đơn giản như sau:
 Nào đưa bàn tay trực nhật khám ngay ( trẻ cuộn 2 bàn tay và lật ngữa tay đưa 
ra trước)
 Tay ai xinh xinh trắng tinh thì xếp hàng ( trẻ đưa tay xếp hàng) 
 Còn tay ai bẩn thì tìm nước rửa đi ngay (trẻ làm động tác rửa tay)
Từ những lời ca, qua động tác mô phỏng giúp trẻ hiểu nghĩa của từ một cách tự 
nhiên.
Biện pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:
 Hoạt động vui chơi chiếm thời gian nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là 
thời gian trẻ được chơi thỏa mái nhất. Giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát 
triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ, trong quá trình chơi trẻ có điều 
kiện học và sử dụng các loại từ khác nhau. Để phát triển giao tiếp ngôn ngữ, việc 
tổ chức trẻ chơi cùng nhau có ý nghĩa rất quan trọng, tôi dạy trẻ dần dần, không áp 
đặt: bắt đầu quan sát bạn chơi, sau đó từ từ đưa trẻ tham gia vào đó, từ đó xuất hiện 
khả năng chuyển trò chơi từ độc lập sang hợp tác cùng nhau, tự trẻ lôi kéo nhau 
vào việc mở rộng quá trình chơi. “ chúng mình sẽ xây công viên”, “ bạn xây cổng, 
mình xây tường rào” ,giúp đỡ những bạn còn lúng túng “ bạn cần phải xây như thế
 10 Con gà mái có hai chân
 Có bốn chân con lợn, con mèo, con chó
 Đẻ trứng con gà mái, con vịt
 Trong quá trình chơi, giúp trẻ hiểu nghĩa của từ, trẻ phải vận dụng vốn từ để 
đối đáp một cách nhanh nhẹn, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói 
mạch lạc, đúng ngữ pháp
 Biện pháp 4: Thường xuyên cho trẻ chơi với các vật liệu từ thiên nhiên 
Bản chất của trò chơi là một hoạt động tự do thoải mái, khác với các hoạt động có 
tính tổ chức khác như lao động hay thể thao, vui chơi không chỉ đầy sự ngẫu hứng 
mà đôi khi trông bừa bộn, thiếu ngăn nắp.Trò chơi thường gắn với cuộc sống của 
trẻ nhỏ và liên quan đến việc sử dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên như: đất, 
cát, nước, đất sét, lá cây, cỏ khô, hoa khô... càng nhỏ trẻ càng thích tiếp xúc trực 
tiếp với chúng như: khuấy trộn, nhào, nặn, ấn, đập... bằng tay thay vì dùng dụng cụ 
như thìa, dao, xẻng... để chơi. Kiểu chơi có vẻ “nghịch bẩn” này làm người lớn 
cảm thấy mệt nhọc hơn khi phải trông coi, giám sát chặt chẽ đến quần áo có thể bị 
ẩm ướt hay dính bẩn, ngoài ra còn phải dọn dẹp “hiện trường” bừa bộn sau khi trẻ 
chơi.Tuy vậy, các cô giáo chúng tôi thì luôn chấp nhận những phiền toái đó để 
khuyến khích, tạo cơ hội cho trẻ “nghịch”, vì chúng tôi hiểu rằng, nó thực sự cần 
thiết cho sự phát triển của trẻ và nhất là phát triến ngôn ngữ. Các vật liệu thiên 
nhiên này mở rộng tính đa dạng của trò chơi, chúng chỉ cung cấp những gợi ý cơ 
bản cho trẻ tự mài mò ra cách chơi và trò chơi cho mình, không bao giờ chỉ có một 
cách chơi đúng, duy nhất cho các vật liệu có sẵn, chơi với cát hay đất sét như thế 
nào là tùy trẻ, chúng phải luôn tự nghĩ và tưởng tượng khi chơi. Một khi vật liệu 
chơi uyển chuyển, linh động, không có khuôn mẫu sẵn như vậy, các ý tưởng về trò 
chơi sẽ hết sức linh động và được mở rộng trong quá trình hình thành trò chơi, 
chúng thực hiện ngay các ý tưởng chợt xuất hiện, biển đổi liên tục hình dạng, vật 
liệu theo sáng kiến nảy sinh bất ngờ. Chẳng hạn khi chơi với nước, lúc đầu trẻ chỉ 
định đào cái rãnh để cho nước chảy qua, sau đó chúng lại nảy sinh ý tưởng làm 
một con sông với những chiếc cầu bắc qua bằng que và những chiếc thuyền bằng 
lá trôi trên đó, hay ban đầu định nặn một con chó từ đất sét chẳng mấy chốc nó lại
 12

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang.docx