Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng tuổi
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24-36 tháng tuổi
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO QUẬN LONG BIÊN TRƯỜNG MẦM NON TƯ THỤC HUỆ MINH --------o0o-------- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 – 36 tháng tuổi” Giáo viên: Nguyễn Thúy An Lớp nhà trẻ : C3 NĂM HỌC 2014 – 2015 1 “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 – 36 tháng tuổi I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiêm, tâm sự với nhau những điều thầm kín.. Bác Hồ của chúng ta đã dạy: "Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn, tôn trọng nó" Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ lứa tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong giao tiếp sẽ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác ở độ tuổi mẫu giáo: môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình... Mà điều tôi muốn đề cập ở đây là để ngôn ngữ của trẻ phát triển thuận lợi, một trong những điều kiện quan trọng là trẻ tích lũy được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó, trẻ biết sử dụng" số vốn" đó một cách thành thạo. Nhưng trên thực tế, trể 24- 36 tháng tuổi ở lớp tôi các cháu dùng từ không chính xác, nói ngọng, nói không đủ câu, nói câu không trọn nghĩa chiếm một số lượng không nhỏ và rất khó cho việc trẻ tiếp cận các môn học khác sau này bởi trẻ một phần nghéo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết diễn đạt sao cho mạch lạc. Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi” làm đề tài nghiên cứu. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: 1.Cơ sở lý luận của vần đề: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí. Có thể nói rằng trong bất kì lình vực hoạt động nào của con người cũng cần đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp cho người trao đổi tư tưởng tình cảm, bộc lộ những cảm xúc và xác lập những mối quan hệ giữa thành viên này với thành viên khác trong xã hội.Ngôn ngữ có thể nói là một thứ công cụ để tổ chức xã hội,để duy trì mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần là phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ, Có thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào 3 - Trình đồ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn. 5 3.2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ - Muốn phát triển vốn từ cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải hiểu được phát triển vốn từ cho trẻ là gì ? Phát triển vốn từ cho trẻ giúp trẻ nắm vững được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống giao tiếp. Để làm được như vậy tôi phải dựa trên các cơ sở lý luận sau: 3.2.1. Cơ sở ngôn ngữ - Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ: Vốn từ của trẻ tăng nhanh, số lượng từ chủ động của trẻ từ 500- 600 từ. Trong vốn từ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép.ở trẻ có cả từ ghép 3- 4 tiếng bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh, những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết. Ví dụ : Máy bay - Máy bay bay Tàu hỏa - Tàu hỏa chạy Con cá - Con cá bơi Bố cháu - Bố cháu đi làm Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng vẫn còn hạn chế bộ máy phát âm của trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay nói kéo dài giọng,đôi khi còn ậm, ừ, ê, a, không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững vốn từ của trẻ. Mặt khác, các cô giáo phải nói to, rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe. 3.2.2. Cơ sở tâm lý: Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan. Thời kỳ này, khả năng chi giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện.Trẻ hay bắt chước những cử chỉ và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong sáng và chính xác để trẻ nói theo. 3.2.3. Cơ sở giáo dục: Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con người và sự vật hiện tượng xung quanh. Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời và sinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu.Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên,đặc điểm của đối tượng, không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu dầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm chuẩn của tiếng việt, đảm bảo các 7 + Vỏ dứa còn có gì? ( Mắt ) 9 trong bài thơ, câu truyện.Khi trẻ đã biết kể lại truyện cùng với co điều đó chứng tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể hiện sự tương ứng mới nội dung câu truyện đó. 3.3.3.. Qua giờ âm nhạc Các tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều với đồ vật ( Trống , lắc, phách tre và nhiều vật liệu ) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại hoạt động ( Vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trể được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng những hình ảnh đep của bài hát. Ví dụ: Hát và vận động bài "Con voi" Trẻ biết sử dụng động tác minh họa đơn giản như: Trông đằng xa kia có con chi to ghê: Trẻ dùng một ngón tay vẫy vẫy Sao trông giống như xe hơi: Hai tay tạo hình chữ nhật ở trước ngực Lăn lăn bánh xe đi chơi: Hai tay quay vòng tròn À thì ra con voi: Dùng tay chỉ kết hợp với vẫy nhẹ Vậy mà...đuôi trên đầu: Dùng tay phải đặt giữa đỉnh đầu vẫy nhẹ. 3.4 Phát triển vốn từ của trẻ thông qua chơi. Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ được sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung rất khác nhau. Ví dụ: Trò chơi bế em Em đói con phải làm gì? (Cho em ăn ạ) Búp bê của bạn ăn chưa? (Rồi ạ) Bạn đã cho búp bê ăn lúc nào vậy? (Vừa ăn xong) Ăn xong con cho em uống gì? (Uống nước ạ) Em khóc con phải làm gì? (Dỗ em) Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe hiểu, giao tiếp cùng nhau Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ. Ví dụ: Tài ơi ! Con đang xếp gì đấy? (Con xếp đoàn tàu) 11 - Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật: Cô nói Trẻ làm tiếng kêu các con vật Con mèo Mèo meo Con vịt Cạp cạp Con chó Gâu gâu Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luật chơi. Cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ. 3.5. Qua giờ đón trả trẻ. - Cô phải tích cực trò chuyện cùng trẻ và yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi của cô rõ ràng. Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua trò chuyện với trẻ, cô cung cấp, mở rộng " vốn từ" cho trẻ. Ví dụ: Sáng nay ai đưa con đến trường ?( Mẹ con ạ ) Con biết tên trường là trường gì? ( Mầm non Huệ Minh ạ) Mẹ con đi bằng gì ? ( Xe đap ) Đi ở đâu? ( Trên đường ạ ) Như vậy khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô nghĩa là trẻ đã tự tin vào "vốn từ vựng" của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, khuyến khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản. Ví dụ: Khi cô đọc cho trẻ nghe câu chuyện "Thỏ con không vâng lời" Cô vừa đọc cho con nghe câu chuyện gì (Thỏ con không vang lời ạ) Trong câu chuyện cô vừa đọc có những ai? (Thỏ con, thỏ mẹ) 13 3.7. Kết hợp với phụ huynh Để vốn từ của trẻ phát triển tốt điều không thể thiếu được đó là nhờ sự đóng góp của gia đình Cô thường xuyên gặp gỡ nói chuyện về tình hình hoạt động của trẻ trong lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được các nội dung chương trình giáo dục hiện hành đồng thời hàng ngày cô cũng trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa của việc phát triển vốn từ cho trẻ. Đề phối hợp cùng giáo viên trong việc phát triển vốn từ cho trẻ thì phụ huynh hàng ngày dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ Đối với những cháu mói học nói thì vài trò của phụ huynh trong việc phối hợp với các cô giáo trong việc trò chuyện nhiều với trẻ là càng cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa phát âm, sửa ngọng. Có như vậy tiếng nói tích cực của trẻ mới được hoàn thiện và trong sáng. 4. Kết quả. Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát. Cụ thể như sau: Lần Lần Nội Tốt Khá 1 Đạt CĐạt Tốt Khá 2 Đạt CĐạt dung SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % Trẻ nói được câu một từ 20 52,6 18 47,4 38 100 00 00 32 84,2 08 21,1 38 100 00 00 Trẻ nói được câu hai từ 12 26,3 11 28,9 33 86,8 05 13,2 22 58 16 42,2 38 100 00 00 Trẻ nói được câu ba từ 05 13,2 15 39,5 20 52,6 18 47,4 15 39,5 17 44,7 32 84,2 06 15,8 Trẻ nói được câu bốn từ 02 5,3 03 7,8 05 13,2 33 86,8 10 26,3 14 36,8 24 63,2 14 36,8 15
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_phat_trien_von_tu_cho_tre.doc